Hiện nay, vấn đề mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) đang là vấn đề nổi cộm trong công tác dân số ở nước ta. Vấn đề này đang thực sự thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội

Theo Tổ chức Y tế thế giới, tỷ số giới tính được xác định là số bé trai được sinh ra trên 100 bé gái, là một chỉ số nhân khẩu học, thể hiện cơ cấu giới tính của một quần thể dân số. Nếu theo quy luật sinh sản tự nhiên, khi thống kê trên một cộng đồng dân cư lớn thì bao giờ TSGTKS cũng dao động trong khoảng từ 103 – 106. Khi TSGTKS tăng lên trên giới hạn đó là bất thường, đặc biệt là nếu trên 110 thì rất đáng báo động. Cùng với sự xuất hiện của siêu âm và kỹ thuật chọc ối, giúp cho các cặp vợ chồng biết được giới tính của thai nhi, TSGTKS bắt đầu gia tăng từ một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Azerbaijan, Armenia,… từ cuối những năm 1970.

Tại Việt Nam, năm 2006, TSGTKS là 110, năm 2007 là 111, năm 2008 là 112 và năm 2009 theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở là 110,5 rồi sang năm 2010, TSGTKS lại lên tới trên 111. Như vậy, TSGTKS của nước ta bắt đầu gia tăng vào khoảng đầu những năm 2000 (sau các nước nói trên khoảng 20 năm, trùng với việc nở rộ các dịch vụ siêu âm, mở rộng các dịch vụ hành nghề y tế tư nhân cùng với việc nạo phá thai dễ dàng) nhưng tốc độ gia tăng lại hết sức nhanh chóng. Với tốc độ gia tăng nhanh chóng, TSGTKS ở Việt Nam có một số đặc điểm nổi bật:

Ở phần lớn các quốc gia có TSGTKS cao, trong lần sinh thứ nhất TSGTKS nằm trong giới hạn bình thường nhưng sẽ tăng lên nhanh chóng vào những lần sinh sau như: Ấn Độ có TSGTKS ở lần sinh thứ 2 là 120, ở lần sinh thứ 3 lên tới trên 130; Trung Quốc hiện đang áp dụng “chính sách 1 con rưỡi”nên TSGTKS ngay ở lần sinh thứ 2 đã lên tới trên 150. Trong khi đó ở Việt Nam, TSGTKS đã cao ngay trong lần sinh đầu tiên: lần sinh thứ nhất là 110,2; lần sinh thứ hai là109; lần sinh thứ ba trở lên (chiếm khoảng 16% tổng số trẻ được sinh ra) là 115,5. Như vậy, ở Việt Nam, một số cặp vợ chồng đã thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh ngay trong lần mang thai thứ nhất, điều này hiếm khi được ghi nhận ở các quốc gia khác.

Nếu trước đây, muốn có con trai chỉ có cách đẻ nhiều cho tới khi có con trai mới thôi, do vậy TSGTKS ở lần sinh cuối cùng rất cao. Trong nhân khẩu học người ta gọi đây là quy luật dừng hay nói một cách khác là yếu tố giới tính đã quyết định việc dừng sinh đẻ, hơn là số con đã có. Chính vì thế, ở Việt Nam giai đoạn 1988-1997, mặc dù TSGTKS ở lần sinh cuối cùng lên tới 134,2 nhưng TSGTKS nói chung cũng chỉ lên tới 107. Từ đầu những năm 2000, do mức sinh giảm nhanh cùng với việc tiếp cận dễ dàng các kỹ thuật lựa chọn giới tính trước sinh, quy luật dừngở Việt Nam cũng đã có những sự thay đổi: một mặt, một số cặp vợ chồng đã chủ động tìm kiếm các kỹ thuật lựa chọn giới tính trước sinh ngay từ lần sinh thứ nhất như đã nói ở trên; nếu chưa được như mong muốn, họ sẽ sử dụng dịch vụ trong những lần có thai sau, cho nên TSGTKS trong lần sinh thứ ba  trở lên ở nhóm các bà mẹ chưa có con trai lên tới 130. Khu vực Đồng bằng sông hồng,  nơi có TSGTKS cao nhất cả nước, TSGTKS đã tăng vọt từ mức 110 trong lần sinh thứ nhất và lần sinh thứ hai lên tới 152 trong lần sinh thứ 3 trở lên.

TSGTKS cao ở những tỉnh xung quanh Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, trong đó cao nhất là các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng Sông Hồng như Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định,… Đây là những địa phương mà người dân có điều kiện tiếp cận dễ dàng các dịch vụ chọn lọc giới tính trước khi sinh.

Theo ông Dương Quốc Trọng, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế, tình trạng gia tăng TSGTKS sẽ dẫn tới những hệ lụy khó lường về mặt xã hội, thậm chí cả an ninh chính trị,… nhất là khi các nam nữ thanh niên bước vào độ tuổi kết hôn. Trước hết là tình trạng dư thừa nam giớitrong độ tuổi kết hôn. Điều này có thể sẽ dẫn tới tan vỡ cấu trúc gia đình, một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn và nhiều người trong số họ không có khả năng kết hôn. Việc gia tăng TSGTKS không những không cải thiện được vị thế của người phụ nữ mà thậm chí còn làm gia tăng thêm sự bất bình đẳng giới như: nhiều phụ nữ phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng cao, tình trạng bạo hành giới, mua dâm, buôn bán phụ nữ sẽ gia tăng,… Vì thế TSGTKS được coi là một trong những chỉ báo quan trọng để đánh giá mức độ bình đẳng giới.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân bằng TSGTKS ở Việt Nam, tuy nhiên, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế chia làm 3 nhóm nguyên nhân chính:

Một là, nhóm nguyên nhân cơ bản. Việt Nam cũng như một số nước châu Á, tư tưởng Nho giáo truyền thống, nối dõi tông đường,… đã làm cho tâm lý ưa thích con trai trở lên mãnh liệt như: từ khi chuẩn bị kết hôn, nhà trai phải chủ động, ngay trên thiếp mời dự đám cưới, phông chữ trang trí cũng thường lấy tên nhà trai trước. Người chồng thường là chủ hộ trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn. Quan niệm có con trai mới được xem là đã có con - “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, không có con trai là tuyệt tự. Đến khi có con, phải theo họ của bố. Khi cha mẹ chết, con trai được đứng trước, con gái đứng sau, chỉ có cháu trai mới được bê bát hương ông, bà; con trai mới mới được vào nơi thờ tự, đóng góp giỗ tổ tiên,… Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ.

Hai là, nhóm nguyên nhân phụ trợ. Do áp lực giảm sinh, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1-2 con, nhưng các cặp vợ chồng lại mong muốn trong số đó phải có con trai vì vậy họ đã sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh để đáp ứng được cả 2 mục tiêu. Do nhu cầu phát triển kinh tế gia đình, ở một số vùng kinh tế xã hội, nhiều công việc nặng nhọc, đặc biệt là công việc trong các ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp, khai thác khoáng sản, đi biển đánh bắt xa bờ,... đòi hỏi sức lao động cơ bắp của con trai; con trai là trụ cột về kinh tế cho cả gia đình. Do chế độ an sinh xã hội chưa đảm bảo, hiện nay 70% dân số nước ta còn sống ở nông thôn, hầu hết không có lương hưu khi về già, họ cần sự chăm sóc, phụng dưỡng của con cái mà theo quan niệm của xã hội hiện nay, trách nhiệm đó chủ yếu thuộc về con trai, vì thế họ sẽ cảm thấy lo lắng và rất không an tâm về tương lai khi chưa có con trai. Do chính sách ưu tiên đối với nữ giới chưa thật thỏa đáng.

Ba là, nhóm nguyên nhân trực tiếp. Lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh như: Áp dụng ngay từtrước lúc có thai (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn,…); trong lúc thụ thai (chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng để chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y…); hoặc khi đã có thai (sử dụng siêu âm, bắt mạch, chọc hút dịch ối…) để chẩn đoán giới tính, nếu là thai trai thì để lại, nếu là thai gái thì bỏ đi...

Với những nguyên nhân trên, theo các chuyên gia về dân số, nếu không có những giải pháp kịp thời thì sự chênh lệch giới tính ở nước ta sẽ ngày càng cao. Đây là bài toán đang được đặt ra không chỉ cho các nhà hoạch định chính sách mà cho toàn xã hội. Bởi chỉ có sự chung tay, góp sức mới có thể giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính như hiện nay.

Tác giả: Trung tâm TTGDSK