- Bộ Y tế vừa có quyết định ban hành hướng dẫn phát hiện tích cực bệnh lao và điều trị dự phòng mắc lao bằng isoniazid (INH) ở người nhiễm HIV, áp dụng đối với tất cả các cơ sở y tế cung cấp dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV (bao gồm cả cơ sở điều trị lao).
Xem hình
INH là thuốc được dùng dự phòng mắc lao ở người nhiễm HIV.

Theo đó, việc thực hiện sàng lọc bệnh lao được thực hiện trong tất cả các lần người nhiễm HIV đến khám; Ưu tiên khám trước cho người nhiễm HIV có triệu chứng ho để giảm nguy cơ lây nhiễm lao sang người khác; Khuyến khích hội chẩn và điều trị bệnh lao tại cơ sở chăm sóc, điều trị HIV/AIDS và áp dụng các kỹ thuật mới trong chẩn đoán lao tại phòng khám.

Trường hợp cần điều trị dự phòng

Việc thực hiện điều trị dự phòng bệnh lao bằng INH được chỉ định cho người lớn và trẻ vị thành niên nhiễm HIV, loại trừ trường hợp đang mắc lao tiến triển; không phụ thuộc vào tình trạng miễn dịch kể cả phụ nữ mang thai, người bệnh đang điều trị ARV và người bệnh đã từng được điều trị lao trước đây. Ở trẻ em, trên 12 tháng tuổi nhiễm HIV, không có bằng chứng mắc lao tiến triển và không tiếp xúc với người bệnh lao. Đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi nhiễm HIV, chỉ điều trị dự phòng những trẻ có tiếp xúc với người bệnh lao và được loại trừ đang mắc lao tiến triển.

Chống chỉ định tuyệt đối: người bệnh có tiền sử dị ứng với INH (người bệnh đã từng bị sốt, phát ban hoặc viêm gan do điều trị bằng INH trước đây).

Chống chỉ định tương đối:

- Viêm gan tiến triển, xơ gan, nghiện rượu nặng: người bệnh có các triệu chứng lâm sàng của viêm gan (mệt mỏi, biếng ăn, nước tiểu sẫm màu, đau bụng, nôn, buồn nôn, vàng da) và/hoặc có tăng men gan (ALT > 5 lần chỉ số bình thường). Trì hoãn việc điều trị dự phòng bệnh lao bằng INH cho trường hợp có viêm gan tiến triển cho đến khi men gan trở về bình thường hoặc < 5 lần giới hạn bình thường.

- Rối loạn thần kinh ngoại biên: người bệnh có cảm giác kim châm, tê bì, yếu chi hoặc có cảm giác đau bỏng rát ở các chi. Trì hoãn việc điều trị dự phòng INH đối với người bệnh có rối loạn thần kinh ngoại biên cho đến khi người bệnh được điều trị ổn định.

 Đối với người lớn uống 1 viên 300mg/ngày, trẻ em 10mg/kg/ngày, tối đa 300mg/ngày. Uống 1 lần/ngày vào thời gian nhất định trong ngày và xa bữa ăn, tốt nhất là uống lúc đói. Thời gian điều trị 9 tháng (đối với người lớn), 6 tháng (đối với trẻ em).

Cần lưu ý gì?

Khi điều trị dự phòng bệnh lao bằng INH cần theo dõi, đánh giá về tác dụng không mong muốn, về tuân thủ điều trị của bệnh nhân và cách xử trí.

Đối với INH, tác dụng không mong muốn thường gặp là viêm dây thần kinh ngoại biên (để khắc phục tình trạng này cần bổ sung vitamin B6). Ngừng INH nếu các triệu chứng của viêm dây thần kinh ngoại biên không thuyên giảm hoặc nặng hơn. Người dùng có thể bị rối loạn chức năng gan, biểu hiện vàng da, tăng men gan (cần phân biệt với tăng men gan do các nguyên nhân khác).

Người bệnh có thể bị nổi mẩn, buồn nôn, nôn, vàng da thì dừng uống thuốc tạm thời đến khi các triệu chứng thuyên giảm hoặc ổn định thì điều trị tiếp tục. Các tác dụng phụ không mong muốn này cần được thông báo cho người bệnh, người chăm sóc và theo dõi các tác dụng phụ trong tất cả các lần tái khám.

Cần theo dõi chặt chẽ các trường hợp người bệnh được điều trị đồng thời INH với NVP (nevirapine) do tăng nguy cơ viêm dây thần kinh ngoại biên và ngộ độc gan. Ngừng thuốc khi xuất hiện các triệu chứng ở mức độ nặng.

Đối với việc tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân, cần tư vấn tuân thủ trước và trong quá trình điều trị dự phòng bệnh lao bằng INH. Trường hợp người bệnh tuân thủ điều trị chưa tốt, cần xem xét đánh giá các nguyên nhân để hỗ trợ kịp thời. Không chỉ định ngừng điều trị do người bệnh tuân thủ chưa tốt.

Đối với trường hợp người bêṇh quên uống thuốc: Nếu người bệnh quên uống dưới 50% tổng số liều, tiếp tục điều trị cho tới khi đủ 270 liều; Nếu người bệnh quên uống trên 50% tổng số liều hoặc bỏ thuốc liên tục trên 2 tháng phải điều trị lại từ đầu.

Trong thời gian điều trị dự phòng bằng INH, người bệnh cần được tái khám và phát thuốc mỗi tháng một lần. Tiếp tục sàng lọc lao cho người bệnh trong suốt thời gian điều trị dự phòng bằng INH cũng như sau khi kết thúc liệu trình dự phòng trong tất cả các lần tái khám. Khi nghi ngờ người bệnh mắc bệnh lao, cần hội chẩn hoặc chuyển sang cơ sở lao để chẩn đoán xác định và điều trị kịp thời. Làm xét nghiệm kháng thuốc INH đối với các trường hợp mắc lao mới trong quá trình điều trị dự phòng bệnh lao bằng INH (nếu có thể).