Y học cổ đại năm nghìn năm trước, từ thời Thần Nông, trong các sách về y thuật đã từng khuyên những người thực hành nghề y “Phải biết giữ trái tim trong lồng ngực”. Đó chính là Y đức.
Hippocrat trở thành biểu trưng của ngành y từ 2.500 năm nay bởi cái khuôn thước tôn trọng đạo đức nghề nghiệp như cứu cánh mà ông đã đóng vào nghề y. Đó chính là Y đức.
Cuprianob có câu nói nổi tiếng: “Ngàn vạn cuộc đời được cứu sống không thể làm dịu đi niềm cay đắng của một tổn thất”. Đó chính là Y đức.
Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, danh y Việt
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho ngành y tế sự quan tâm đặc biệt, trong mọi cuộc nói chuyện hay trong tất cả các thư gửi cán bộ viên chức ngành y tế, Người luôn nhắc nhở mỗi nhân viên y tế “Không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh, coi nỗi đau của người bệnh như nỗi đau của chính mình”. Không ít lần Người căn dặn cán bộ ngành y: Lương y phải như từ mẫu.
Y đức là một phạm trù của đạo đức y học, nên nội hàm của Y đức rất rộng, nó phản ánh những đặc tính căn bản, những phương diện và những mối quan hệ phổ biến của đạo đức ngành y trong đời sống xã hội. Đề cập đến những mối quan hệ phổ biến của đạo đức ngành y tế, nổi bật lên trên hết là mối quan hệ giữa “Nhân viên y tế với đồng nghiệp, mối quan hệ giữa nhân viên y tế với người bệnh”. Một trong những khía cạnh phản ánh mối quan hệ đó là: Văn hóa ứng xử của mỗi nhân viên y tế.
Văn hóa ứng xử của nhân viên y tế là một bộ phận cấu thành lên đạo đức ngành y, là nét đẹp trong giao tiếp giữa những con người đang ngày đêm giành giật lại sự sống cho người bệnh, xoá đi những nỗi đau và mang lại niềm vui cho biết bao số phận. Đối với mỗi nhân viên y tế, thời gian trong một ngày, ngoại trừ lúc ngủ, những lúc một mình hay chú tâm vào công việc, còn lại một nửa thời gian là để tiếp xúc, trao đổi và trò truyện với người bệnh, với đồng nghiệp, với những người xung quanh. Vậy tại sao ta không khéo léo hơn trong văn hoá ứng xử?
Văn hoá ứng xử là một nghệ thuật nhưng nó không phải đến mức nghệ thuật hoá. Nghệ thuật ứng xử bao giờ cũng xuất phát từ cuộc sống chân thực, lối sống thật thà, thái độ của nhân sinh quan và tâm lý sâu sắc, không làm những điều mà mình và người khác không mong muốn. Nếu một người nhân viên y tế có trái tim nhân hậu của người mẹ hiền, có bộ não uyên bác của nhà khoa học, có tâm hồn lãng mạn của một nghệ sỹ, có bàn tay khéo léo của một nghệ nhân, thì nghệ thuật ứng xử sẽ tự nhiên thấm ngấm vào cuộc sống hàng ngày của họ. Nghệ thuật ứng xử không tự nhiên mà có, nó càng không thể xây dựng trên một nền tảng tâm hồn và trí tuệ nghèo nàn, nó là kết quả của cả một quá trình nhận thức và rèn luyện không ngừng của bản thân mỗi con người trong ngành y tế. Chỉ để hoàn thành tốt nhiệm vụ và công việc chuyên môn thì dễ, nhưng xử thế với mọi người xung quanh mình như thế nào cho phải lẽ mới khó.
Giao tiếp vừa là một nhu cầu, vừa là một nghệ thuật. Vậy làm thế nào để mỗi nhân viên y tế có phong cách ứng xử thật văn hoá với người bệnh, hay với đồng nghiệp của mình? Trong cuộc sống hàng ngày, để hiểu biết nhau, trao đổi tin tức, phổ biến kiến thức cho nhau, con người cần phải sử dụng ngôn ngữ, nét mặt, thái độ, dáng điệu, cử chỉ... hay còn gọi là Phong cách ứng xử phi ngôn ngữ và Ứng xử bằng ngôn ngữ.
1. Phong cách ứng xử phi ngôn ngữ.
Tình cảm sâu kín của con người có thể được biểu lộ qua nét mặt, nụ cười, thái độ, ánh mắt, cử chỉ, động tác hình thể. Một nghiên cứu xã hội học về kỹ năng giao tiếp ở phương Tây cho thấy, phong cách ứng xử phi ngôn ngữ chiếm khoảng 90% trong việc giao tiếp giữa con người với nhau. Từ nét mặt của mỗi người, hoặc kiêu hãnh tự hào, hoặc trầm tư đăm chiêu, hoặc nghiêm nghị, hoặc mỉm cười, hoặc cuời nhạt hay cười không thành tiếng, dáng đi từ tốn, thái độ lịch sự... chỉ cần để ý quan sát là có thể phần nào hiểu được tính cách của con người đó. Những người tầm thường hay có những hành động manh mún khuất tất, cử chỉ dung tục, ánh mắt soi mói, gây khó chịu cho những người xung quanh. Những người lịch sự thường có những hành động đàng hoàng, cử chỉ thanh cao, tâm hồn cởi mở rất dễ được lòng người khác.
Y học thời kỳ Ấn Độ cổ đại, quan niệm về người làm nghề y phải đẹp cả về hình thức lẫn tâm hồn. Kinh Veda Harak đưa ra tiêu chuẩn người Thầy thuốc phải có cách xử thế đàng hoàng, không làm phật lòng người bệnh, phải có lòng trắc ẩn, có sự niềm nở, nhẫn nại, chủ động, bình tĩnh, lạc quan, tin tưởng… Nền y học Brama qui định người hành nghề y phải mặc quần áo trắng sạch sẽ thơm tho, móng tay cắt cẩn thận sạch sẽ, không đùa cợt với bệnh nhân nữ, có lòng trắc ẩn và nhân hậu. Những quan niệm như thế về người thực hành nghề y góp phần hình thành nên phong cách ứng xử phi ngôn ngữ của người thầy thuốc, đủ tạo nên niềm tin, sự kính trọng, lòng yêu mến của người bệnh đối với người thầy thuốc.
2. Ứng xử bằng ngôn ngữ nói .
Ông cha ta thường dạy ” Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Bản tính con người là muốn được sẻ chia. Tri thức, niềm vui kể cho một người nghe sẽ được nhân lên thành hai, nỗi buồn kể cho một người nghe sẽ giảm đi một nửa. Ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất của giao tiếp. Mọi khổ đau bất hạnh trên đời này đều từ lời nói mà ra. Lời nói khởi đầu cho tất cả sự việc, lời nói xấu thường mang tai hoạ cho bản thân và cho người khác. Ngược lại, lời nói đẹp mang đến cho cuộc sống sự bình yên, hạnh phúc. Người xưa có câu “Bệnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất”, nghĩa là: “Bệnh từ miệng mà vào, hoạ từ miệng mà ra”. Tai hoạ do trời gây ra có thể tránh, còn tai hoạ do lời nói của mình gây ra thì khó tránh khỏi. Bởi vậy con người mới phải học cách nói năng giao tiếp. Sửa được ngôn ngữ giao tiếp nghĩa là đã sửa được tâm tính, giảm bớt được khẩu nghiệp. Không thể cầu mong nghe được những lời nói dịu dàng trong khi chính bản thân chưa làm được như vậy.
Lời nói dễ nghe, êm ái, ngọt ngào bao giờ cũng xuất phát từ một tâm hồn cao đẹp, một tấm lòng nhân ái bao la, nó có tác dụng động viên, an ủi người nghe, làm cho người nghe có cảm tình, tạo dựng niềm tin và làm theo lời nói ấy. “Chim khôn hót tiếng thanh nhàn, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Cùng một nội dung của lời nói, nhưng tùy theo giọng nói, tùy theo cách nói mà hai người có thể cảm thông cho nhau, nhưng cũng có thể gây trách cứ, hiểu lầm nhau.
Trong giao tiếp, ngôn ngữ nói phải hấp dẫn, lôi cuốn, mạch lạc, dễ hiểu, câu nói có đầy đủ cụm chủ vị, đơn giản nhưng hàm ý sâu xa. Người nói phải có sự chuẩn bị trước, không nói bừa, nói ẩu, nói không suy nghĩ. Phải hiểu và nắm bắt được tâm lý người nghe, đặt mình vào vị trí người nghe. Phải luôn tôn trọng người nghe, xưng hô đúng mực, tuyệt đối không dùng những đại từ nhân xưng có tính miệt thị như: Mày, tao, thằng, con, nó, cái…
Trong ngôn ngữ giao tiếp đòi hỏi con người phải luôn luôn tế nhị và nhạy cảm. Có những điều nói ra để góp ý cho người khác là không sai, nhưng cần bình tĩnh, không nên góp ý theo phản ứng, mà phải chọn thời điểm thích hợp. Người có trách nhiệm với lời nói của mình là phải biết chọn đúng thời điểm thích hợp để nói, đó là khi bản thân mình và người nghe đều đang ở trong trạng thái thoải mái, bình tĩnh, không hề nóng giận. Bằng không, người nghe sẽ hiểu lầm, sẽ tìm cách phản ứng chống đối lại, hoặc ít nhất cũng gây cho họ sự lúng túng khó xử. Một người mắc phải sai lầm nhưng họ đã nhận ra và đang có thái độ tích cực sửa chữa thì tốt hơn hết là không nên góp ý với họ. Tranh luận về một vấn đề nào đó là rất tốt, nhưng mục đích của tranh luận là phải đi tới tận cùng vấn đề, phải tìm ra sự đúng sai để rút kinh nghiệm, cho nên người nói và người nghe phải cùng có thiện chí, cùng có tính xây dựng.
Bản tính con người ai cũng muốn nhận được những lời khen. Lời khen khéo léo và thành thật không phải là lời tâng bốc, phỉnh nịnh. Không nên nói những lời khách sáo hoa mỹ, đề cao quá đáng, chót lưỡi đầu môi. Dùng lời nói tâng bốc để khen một người chính là đã xỉ nhục họ, xỉ nhục bản thân mình.
Không nên chửi mắng, nói lời châm chích cay nghiệt, nói lời không tử tế, lời tự cao tự đại, nói dối, nói sau lưng người, xúc giục gây mất đoàn kết. Nên biết cách lặng im và lắng nghe người khác nói.
Nghề y là một nghề đặc biệt. Văn hoá ứng xử trong cộng đồng y tế lại càng đặc biệt hơn. Để có được văn hoá ứng xử tốt, ngoài những người có khả năng thiên bẩm, số còn lại đòi hỏi phải không ngừng rèn luyện nâng cao kỹ năng giao tiếp cũng như nỗ lực trau dồi những kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống. Tri thức nhân loại cùng với những trải nghiệm trong cuộc sống là cơ sở vững chắc nhất để từ đó con người đạt tới nghệ thuật trong văn hoá ứng xử. Không riêng gì ngành y tế, toàn xã hội đều hướng tới mục đích xây dựng nếp sống văn minh trong cộng đồng, mỗi cá nhân cần có một phong các ứng xử văn hoá đẹp đẽ khác nhau, cùng xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trần Văn Phúc
Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn