Trạm y tế xã phường có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của Y tế cơ sở, giúp cho Hệ thống Y tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trong các thập kỷ qua. Tuy nhiên với sự thay đổi về kinh tế - xã hội ở khu vực đô thị, đời sống của người dân tăng nhanh, có nhu cầu ngày càng cao về các dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ. Nét nổi bật là xu hướng lựa chọn các dịch vụ chất lượng cao về khám chữa bệnh, lựa chọn bệnh viện tuyến trên. Điều này đặt ra những khó khăn cho Ngành Y tế và đòi hỏi cần có những nghiên cứu cụ thể, sâu và sát với thực tế hiện trạng của mạng lưới y tế xã, phường để xây dựng được chính sách về tổ chức, hoạt động của các trạm y tế xã phường tại các khu vực đô thị lớn để đáp ứng với nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân.

Đã có một số nghiên cứu về trực trạng mạng lưới y tế xã, phường, được thực hiện tại các thành phố lớn, các Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của cả nước như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Tỷ lệ bác sĩ /10.000 dân của Tp Hồ Chí Minh đạt 6,5; Đà nẵng đạt 5,95; Cần Thơ là 5,07 và  Hà Nội đạt xấp xỉ 4,5. Tại các thành phố lớn, bên cạnh Trạm y tế phường có rất nhiều cơ sở khám chữa bệnh lớn của nhà nước và cũng có rất nhiều cơ sở KCB tư nhân. Đây cũng là một trong những nguyên nhân lớn ảnh hưởng tới việc người dân tiếp cận với dịch vụ y tế tại các TYT phường, xã.

Về nhân lực, trung bình mỗi Trạm Y tế xã, phường có từ 6 - 8 cán bộ y tế (Trạm ít nhất là 5 và nhiều nhất là 12 cán bộ). Nhiệm vụ của Y tế phường, xã là thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân tại các địa phương. Trong đó chú trọng công tác y tế dự phòng, đẩy mạnh truyền thông giáo dục sức khoẻ để nâng cao nhận thức của người dân về phòng chống các dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm và thực hiện các chương trình y tế tại địa phương. Quản lý sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn, khám và điều trị các bệnh thông thường, sơ cấp cứu và chuyển kịp thời các trường hợp bệnh nhân nặng lên tuyến trên. Mỗi một thành phố đều có một đặc điểm riêng, nhưng ở đâu cũng coi công tác khám chữa bệnh là nhiệm vụ rất cần thiết của y tế phường, xã, công tác khám chữa bệnh tại y tế phường chủ yếu phục vụ 3 đối tượng chính: Người có thẻ bảo hiểm y tế; Trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng khám dịch vụ. Bệnh nhân đến Trạm y tế thường là là những người mắc các bệnh như huyết áp cao, tiểu đường, bệnh đường hô hấp, các chấn thương nhẹ và các bệnh về tiêu hóa. Nhiều nơi, trạm y tế phường vẫn thu hút được lượng bệnh nhân khá đông đến khám là do địa điểm thuận tiện với sự đi lại của người dân, Bác sĩ có chuyên môn tốt  gắn bó với trạm y tế lâu năm, có uy tín với người dân trên địa bàn. Ngoài ra, một bộ phận người dân lựa chọn y tế phường, xã vì thủ tục đơn giản, gần nhà, đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh.

Chương trình phấn đấu xây dựng đạt Chuẩn Quốc gia về y tế xã, phường cũng là một động lực thúc đẩy các Trạm y tế phường, xã nâng cao năng lực khám chữa bệnh tại trạm, nâng cao khả năng thu hút bệnh nhân đến với trạm y tế. Một số nơi mặc dù số lượng bệnh nhân đến Trạm y tế phường không nhiều, trung bình trên 10 lượt người /ngày. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó vẫn có những Trạm y tế vẫn triển khai được nhiều dịch vụ  phục vụ người dân như: Nha khoa, Siêu âm, Xét nghiệm và Đông y. Như vậy, có thể khẳng định là Trạm y tế xã, phường nếu được chuẩn bị tốt về cơ sở, trang thiết bị, có bác sĩ với chuyên môn tốt, thì vẫn có điều kiện thực hiện có hiệu quả công tác khám chữa bệnh.

Bên cạnh một số Trạm y tế xã, phường, xã có số lượng bệnh nhân đến khám chữa bệnh đông thì lại có một số nơi các Trạm y tế chưa thu hút được bệnh nhân đến khám chữa bệnh. Nguyên nhân thường thấy do: Trên địa bàn có nhiều bệnh viện lớn của Trung ương, của thành phố, của quận, huyện. Nhân lực và trình độ chuyên môn của phần lớn các Trạm y tế xã, phường không đáp ứng được nhu cầu, đặc biệt tại các phường đông dân cư. Đời sống và thu nhập thấp của cán bộ y tế phường cũng là nguyên nhân  ảnh hưởng tới hoạt động của y tế phường. Về  thiết bị y tế, phần lớn các trạm được trang bị theo danh mục Chuẩn Quốc gia về y tế xã phường, có nhiều trạm y tế đã được trang bị máy điện tim, máy siêu âm, máy khí dung, tại một số nơi, các trang thiết bị này phát huy được hiệu quả sử dụng tốt, nhưng tại một số trạm lại không có người chuyên trách sử dụng, gây ra tình trạng lãng phí.

Trong các chức năng của Trạm y tế xã, phường thì việc triển khai các chương trình y tế là vô cùng quan trọng. Ở tất cả các Trạm y tế đều phải thực hiện đầy đủ 12 chương trình y tế Quốc gia. Trong đó có những Chương trình quan trọng là: Tiêm chủng mở rộng; Phòng chống dịch bệnh; Phòng chống suy dinh dưỡng; Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em; Vệ sinh an toàn thực phẩm…, thời gian dành cho những nhiệm vụ nêu trên chiểm tới 70% thời gian hoạt động của trạm y tế xã, phường. Nhìn chung, hoạt động của các chương trình y tế Quốc gia ở các trạm y tế phường  được tổ chức thực hiện cơ bản là tốt. Công tác chỉ đạo của Đảng, chính quyền và  sự phối hợp của các ngành với y tế xã phường luôn chặt chẽ, coi công tác y tế xã, phường là nhiệm vụ trọng tâm. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện các chương trình y tế Quốc gia vẫn có những bất cập, ví dụ như chương trình Vệ sinh an toàn thực phẩm, vừa mang tính chất quản lý nhà nước, vừa mang tính chuyên môn kiểm tra vệ sinh thực phẩm, trong khi đó nhân lực của trạm lại ít người, chưa có chuyên môn sâu về vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đề cập tới công tác, giám sát phát hiện và xử lý dịch bệnh tại địa phương. Đây  cũng là nhiệm vụ quan trọng của Trạm y tế phường xã, việc phát hiện dịch bệnh thường được thực hiện theo hai kênh. Từ cộng đồng, do tổ dân phố, nhân viên y tế khu phố khi phát hiện dịch bệnh báo đến. Từ phía các bệnh viện, các Trung tâm y tế quận, huyện khi khám bệnh, phát hiện có bệnh dịch rồi thông báo lại về y tế phường xã. Từ đó, Trạm y tế xã phường làm tham mưu cho UBND các địa phương và huy động sự tham gia cộng đồng xử lý và dập tắt dịch bệnh.

Một nhiệm vụ trọng tâm của y tế xã, phường và không thể thiếu được, đó là công tác truyền thông giáo dục sức khỏe. Nội dung giáo dục truyền thông tập trung vào công tác phòng chống dịch, giữ gìn vệ sinh môi trường, sử dụng nước sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêm chủng mở rộng, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống tai nạn thương tích, kế hoạch hóa gia đình, những nội dung về chính sách liên quan tới công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Các Trạm y tế phường, xã có nhiều hình thức truyền thông như: viết tin ,bài để truyền thông trên đài phát thanh của phường, phân phát các tờ rơi, áp phích, tố chức các góc truyền thông tại trạm y tế. Tổ chức truyền thông trực tiếp qua đội ngũ cán bộ y tế phường, y tế thôn bản và các cụm dân cư, các cộng tác viên, cán bộ khu phố và các đoàn thể xã hội tham gia. Tuy nhiên, công tác truyền thông giáo dục sức khỏe của Trạm y tế phường còn nhiều hạn chế, nguyên nhân do nhân lực ít, tài chính dành cho công tác truyền thông không có nhiều. Trong công tác tuyên truyền, truyền thông giáo dục sức khỏe vẫn còn sự thiếu đồng bộ giữa cán bộ văn hóa của địa phương và cán bộ truyền thông y tế.

Trước những yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi cấp bách việc đổi mới, nâng cao năng lực khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân ở tuyến y tế xã, phường là hết sức cần thiết. Việc bố trí nghiên cứu định biên đầy đủ, hợp lý về nhân lực cho trạm y tế xã, phường cần được quan tâm, về Trang thiết bị, ngoài danh mục theo Chuẩn Quốc gia về y tế xã, phường, có thể trang bị thêm một số thiết bị kỹ thuật như máy siêu âm, điện tim, xét nghiệm, tất nhiên phải có cán bộ sử dụng những trang thiết bị nói trên. Cán bộ ở Trạm y tế phải được thường xuyên tập huấn, đào tạo, đào tạo bổ xung về chuyên môn. Nếu các Trạm y tế có thể thay thế vai trò như bác sĩ gia đình, đảm trách việc quản lý sức khỏe cộng đồng, dân số - KHHGĐ, quản lý các bệnh mãn tính như: Tim mạch, tiểu đường, huyết áp, chăm sóc người già…

Điều quan trọng là cần xây dựng một quy chế rõ ràng cho Trạm y tế xã, phường là một cơ sở khám chữa bệnh dịch vụ y tế có thu và xây dựng được bảng giá dịch vụ y tế tại tuyến này. Trong thực tế tình tình quá tải tại các bệnh viện Trung ương, bệnh viện Thành phố, thậm chí tại các bệnh viện trực thuộc quận, huyện. Thì việc nâng cấp và kiện toàn mạng lưới y tế xã, phường sao cho đáp ứng được nhu cầu dịch vụ khám chữa bệnh và dịch vụ y tế cơ bản của cộng đồng, địa phương cũng là một giải pháp nhằm giảm tải gánh nặng về lưu lượng bệnh nhân cho các tuyến trên.

Trong Hội nghị đánh giá kết quả 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về  xây dựng kiện toàn và phát triển mạng lưới y tế cơ sở. Đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã nhấn mạnh :"Sau 10 năm triển khai Chỉ thị 06-CT/TƯ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, tại tuyến y tế cơ sở cũng bộc lộ những hạn chế cần phải giải quyết, đó là: việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng về y tế cơ sở còn chậm; mô hình hệ thống y tế tuyến huyện không ổn định; hệ thống nuôi trồng và sử dụng thuốc Nam và Y tế biển đảo chưa được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó chính sách đãi ngộ cho cán bộ và nhân viên tuyến xã vẫn quá thấp, các chuẩn về y tế của tuyến xã còn chồng chéo; đầu tư cho y tế cơ sở, đặc biệt công tác tuyên truyền chưa đáp ứng yêu cầu..."

    Đồng chí cũng chỉ rõ, thời gian tới cần đẩy mạnh vai trò và trách nhiệm của Ban cán sự Đảng, các cấp ủy Đảng, Chính quyền cơ sở; nghiên cứu và đề xuất mô hình tổ chức mạng lưới y tế cơ sở ổn định và phù hợp, tạo được động lực thu hút cán bộ giỏi chuyên môn, quản lý về làm việc tạo uy tín và nâng cao chất lượng và cơ hội chăm sóc sức khỏe người dân ngày một tốt hơn."


Tác giả: Trung tâm TTGDSK