Thời gian qua, Viện Huyết học truyền máu Trung ương áp dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến để bảo đảm an toàn trong sàng lọc, tránh lây truyền các bệnh qua đường máu. Nhờ đó, đã bảo đảm an toàn truyền máu, cung cấp nguồn máu theo tiêu chuẩn và kịp thời.
Xem hình

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khẳng định, bảo đảm an toàn truyền máu là một trong ba lĩnh vực đánh giá sự phát triển y tế của mỗi quốc gia. Việc đảm bảo an toàn truyền máu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó xét nghiệm sàng lọc máu, bảo đảm an toàn truyền máu là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất

Theo GS. Nguyễn Anh Trí, để đảm bảo an toàn truyền máu, thì cần phải tìm ra được các tác nhân lây qua đường truyền máu. Nếu như trước đây dùng các xét nghiệm huyết thanh học để phát hiện kháng thể viêm gan C, HIV và kháng nguyên viêm gan B…Thì hiện nay, thế giới dùng kỹ thuật xét nghiệm sinh học phân tử để phát hiện yếu tố di truyền (AND hoặc RNA) của vi rút viêm gan B, viêm gan C, HIV. Đây thực sự là bước tiến vô cùng to lớn, tạo ra một kỷ nguyên mới trong bảo đảm an toàn truyền máu. Hiện tại, NAT là kỹ thuật xét nghiệm sàng lọc máu tiên tiến nhất được thế giới áp dụng.

Kỹ thuật này được thực hiện trên máy xét nghiệm sinh học phân tử hoàn toàn tự động sàng lọc vi rút HBV, HCV, HIV cho độ chính xác, độ nhạy cao, rút ngắn được khoảng cửa sổ của các yếu tố vi rút lây nhiễm theo đường truyền máu như: rút ngắn thời gian cửa sổ phát hiện các vi rút HIV từ 3 tháng xuống còn từ 7-10 ngày, hay với vi rút viêm gan B (HBV) có thể phát hiện sớm hơn 25 ngày, với vi rút viêm gan C sớm hơn 60 ngày (tính từ thời điểm có nguy cơ lây nhiễm vi rút) so với kỹ thuật xét nghiệm huyết thanh học. Như vậy, kỹ thuật NAT góp phần hạn chế mức thấp nhất sự lây lan của các vi rút lây truyền qua đường truyền máu.

Viện Huyết học - Truyền máu T.Ư là đơn vị đầu tiên của cả nước triển khai thành công kỹ thuật NAT trong xét nghiệm sàng lọc máu. Kỹ thuật NAT phát hiện dựa trên nguyên tắc nhân bản gien đích. Kỹ thuật này có độ nhạy cao cho phép phát hiện và nhân bản đặc hiệu theo hàm mũ các trình tự đích của tác nhân gây bệnh từ một lượng nhỏ vi-rút. Do đó, cho phép phát hiện sớm và chính xác các tác nhân gây bệnh. NAT là kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay, mở ra kỷ nguyên mới bảo đảm an toàn truyền máu, cung cấp nguồn máu an toàn, kịp thời với việc thực hiện trên máy xét nghiệm sinh học phân tử hoàn toàn tự động sàng lọc vi-rút viêm gan B (HBV), viêm gan C (HCV) và HIV cho độ chính xác, độ nhạy cao. Kỹ thuật này đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc rút ngắn thời gian cửa sổ phát hiện các vi-rút. Hiện nay, tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng chiếm khoảng 0,25%, viêm gan B và C chiếm 2,5 đến 25% thì kỹ thuật này đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Đáng chú ý, kỹ thuật NAT có thể được sử dụng để phát hiện đồng thời HIV, HBV và HCV thông qua một xét nghiệm trong thời gian bốn đến năm giờ, bảo đảm an toàn cho đơn vị máu truyền.

Kỹ thuật xét nghiệm NAT có ưu điểm nổi bật là độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao, do phát hiện trực tiếp ADN hoặc ARN của vi-rút; xác định a-xít nucleic của vi-rút theo các trình tự đặc hiệu; giúp phát hiện vi-rút ở giai đoạn cửa sổ từ lúc phơi. Theo các nghiên cứu trên thế giới, so với xét nghiệm sàng lọc huyết thanh, kỹ thuật NAT giúp rút ngắn giai đoạn cửa sổ từ 82 xuống 23 ngày đối với vi-rút HCV; từ 59 xuống 34 ngày đối với vi-rút HBV và từ 21 xuống 11 ngày đối với vi-rút HIV. Ngoài ra, trước đây, các máy móc thông thường chỉ xét nghiệm được 120 mẫu với thời gian sáu tiếng, thì một lần xét nghiệm NAT đã được 520 mẫu, thời gian chỉ mất ba đến bốn tiếng.

Việc áp dụng thành công kỹ thuật xét nghiệm NAT đánh dấu một bước tiến mới trong việc bảo đảm an toàn truyền máu cho người bệnh bằng việc rút ngắn thời gian phát hiện vi-rút gây bệnh có trong máu. Hiện nay, cứ mỗi người hiến máu sẽ có từ một đến bốn người nhận, trong khi, mỗi ngày Viện Huyết học - Truyền máu T.Ư cung cấp khoảng 1.000 đơn vị máu cho điều trị. Nếu không sàng lọc máu hoặc sàng lọc không an toàn, nguy cơ lây truyền bệnh rất lớn. Tuy nhiên, do chi phí xét nghiệm NAT khá cao, cho nên các bác sĩ thường chỉ định xét nghiệm NAT trên mẫu trộn sáu hoặc trộn bốn, còn những chỉ định xét nghiệm ở mức thấp hơn là kỹ thuật Real time PCR hay kỹ thuật khuếch đại qua trung gian phiên mã (TMA)…

ThuTrang (tổng hợp)