Bệnh tả (cholerae) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây dịch đường tiêu hoá do phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae gây ra. Biểu hiện chủ yếu bằng nôn và tiêu chảy với số lượng lớn dẫn đến mất nước và điện giải trầm trọng, gây sốc nặng. Nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.
1. Tác nhân gây bệnh
Vi khuẩn tả (Vibrio cholerae) là vi khuẩn cong hình dấu phẩy, Gram âm, di động nhanh nhờ có một lông, có khả năng tồn tại trong nước và thức ăn khoảng một tuần. Vi khuẩn có thể tồn tại nhiều năm trong các động vật thân mềm ở vùng ven biển. Vi khuẩn tả dễ bị tiêu diệt bởi nhiệt độ và các chất diệt khuẩn thông thường.
2. Nguồn truyền nhiễm
- Bệnh nhân tả: Người bệnh đào thải nhiều vi khuẩn trong thời kỳ toàn phát, theo phân và chất nôn. Trong số những người có biểu hiện triệu chứng, 80% là ở thể nhẹ và vừa, chỉ có 20% có biểu hiện mất nước nặng. Nếu được điều trị đúng, tỷ lệ tử vong là dưới 1%. Nếu được điều trị kháng sinh đặc hiệu, phẩy khuẩn tả sẽ hết dần, nhanh nhất là 2 ngày, dài nhất 6 ngày. Một số ít bệnh nhân sau khỏi vẫn tiếp tục đào thải vi khuẩn ra bên ngoài, có thể từ 3-6 tháng.
- Người lành mang phẩy khuẩn tả: Người lành mang khuẩn là những người đã được điều trị khỏi về mặt lâm sàng nhưng vẫn tiếp tục mang mầm bệnh và những người mang mầm bệnh không triệu chứng.
- Ổ chứa trong thiên nhiên: Ổ chứa thiên nhiên của bệnh tả là một số động thực vật thuỷ sinh, nhất là các nhuyễn thể (cá, cua, trai, sò, ngao...) ở vùng cửa sông hay ven biển.
3. Phương thức lây truyền
- Bệnh tả lây theo đường tiêu hoá, qua đường nước bị nhiễm bẩn bởi phân người hoặc phân động vật và qua thực phẩm bị nhiễm các tác nhân gây bệnh trong quá trình chế biến hoặc bảo quản, bởi nước bẩn, qua bàn tay bẩn và ruồi, nhặng nhiễm phảy khuẩn tả.
- Những yếu tố làm tăng nguy cơ lan truyền bệnh tả là đời sống kinh tế xã hội và dân trí thấp, phong tục tập quán sinh hoạt lạc hậu, thời tiết nóng ẩm, thiếu nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh, không đảm bảo các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm đặc biệt là thức ăn đường phố, tình trạng mất vệ sinh ở những vùng sau lũ lụt, thảm hoạ, trại tị nạn.
4. Triệu chứng của bệnh tả
- Thời kỳ ủ bệnh: Từ vài giờ đến 5 ngày.
- Thời kỳ khởi phát: Biểu hiện bằng sôi bụng, đầy bụng, tiêu chảy vài lần.
- Thời kỳ toàn phát:
+ Tiêu chảy liên tục rất nhiều lần với khối lượng lớn, có khi hàng chục lít một ngày. Phân tả điển hình toàn nước, màu trắng lờ đục như nước vo gạo, không có nhầy máu.
+ Nôn, bệnh nhân nôn rất dễ dàng, lúc đầu ra thức ăn, sau toàn nước.
+ Bệnh nhân thường không sốt, ít khi đau bụng.
+ Tình trạng mất nước và điện giải gây mệt lả, chuột rút...
5. Các biện pháp phòng bệnh
- Rửa tay với xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
- Mỗi gia đình cần có 1 nhà tiêu hợp vệ sinh, tránh việc đi tiêu bừa bãi. Đối với những gia đình có người bị tiêu chảy cấp cần rắc vôi bột để khử trùng sau mỗi lần người bệnh đi vệ sinh.
- Ở những vùng đang xảy ra tình trạng dịch tả, cần phải hạn chế người ra vào.
- Thực hiện ăn chín uống sôi. Hạn chế ăn rau sống, ăn thực phẩm tái hoặc sống.
- Đảm bảo nguồn nước uống và nước sinh hoạt sạch sẽ.
- Khi phát hiện có người bị tiêu chảy cấp, phải báo ngay với cơ sở y tế gần nhất đề được thăm khám và điều trị kịp thời.
- Tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, cung cấp các kiến thức về bệnh cho cộng đồng để mỗi người trong chúng ta đều biết cách phòng tránh nhằm đảm bảo sức khỏe cho bản thân và gia đình./.
Minh Đức