Viêm dạ dày mạn (VDDM) là tổn thương mạn tính của biểu mô phủ niêm mạc dạ dày mà biểu hiện nổi bật là thâm nhiễm viêm lymphô mạn
Xem hình

Viêm dạ dày mạn (VDDM) là tổn thương mạn tính của biểu mô phủ niêm mạc dạ dày mà biểu hiện nổi bật là thâm nhiễm viêm lymphô mạn, có thể dẫn đến các biến đổi mô bệnh học (MBH) quan trọng như teo tuyến niêm mạc, dị sản ruột, loạn sản là những tổn thương được coi là tiền ung thư. Đa số trường hợp VDDM là do vi khuẩn Helicobacter pylori (HP), có thể dẫn tới loét dạ dày tá tràng, ung thư dạ dày và u lymphô MALT.

Nguyên nhân và triệu chứng

Trước năm 1983, những yếu tố sau đây thường được cho là nguyên nhân của VDDM: tuổi; yếu tố di truyền; các yếu tố miễn dịch; yếu tố nội tiết; bệnh hệ thống; nguyên nhân bên trong dạ dày; các yếu tố ngoại lai; chế độ ăn... Tuy nhiên, từ năm 1983, Barry Marshall và Robin Warren đã chứng minh được vi khuẩn HP là tác nhân chính gây VDDM và loét dạ dày tá tràng.

Không có dấu hiệu: Ở những quần thể khác nhau không có triệu chứng về tiêu hóa, tỷ lệ có VDDM trên xét nghiệm mô bệnh học là từ 29 - 60% chung cho mọi lứa tuổi. Điều này có liên quan đến tỷ lệ nhiễm HP, ước tính khoảng trên 50% dân số các nước trên thế giới và hầu như người bị nhiễm chưa từng được chữa trị.

 

Có hội chứng rối loạn tiêu hóa: Hay có những rối loạn sớm sau bữa ăn. Đau thượng vị, thường có cảm giác khó chịu, nặng bụng thường xuyên, trướng bụng sau bữa ăn. Trước kia người ta phân ra 2 loại hội chứng là hội chứng rối loạn tiêu hoá giảm trương lực (đầy hơi trướng bụng, tức bụng, ợ chua, buồn nôn, chán ăn) và hội chứng rối loạn tiêu hóa cường trương lực (nóng rát thượng vị, sau ức ngay sau bữa ăn, uống các thuốc kiềm vào không đỡ. Nôn ra thức ăn hoặc dịch vị).

Những triệu chứng này hiện được mô tả trong phức hợp triệu chứng của rối loạn tiêu hóa chức năng mạn tính.

Điều trị như thế nào?

Không có điều trị đặc hiệu chung cho VDDM mà cần tìm nguyên nhân để có hướng điều trị. Bệnh nhân bị VDDM cần tránh: rượu, thức ăn cay chua, các thuốc corticoid, aspirin và thuốc giảm đau không steroid. Có thể dùng các thuốc kháng acid, chống H2, PPI trong các trường hợp VDDM không tìm thấy HP. Trường hợp dạ dày vô toan thì tiêm vitamin C sẽ cải thiện hấp thu chất Fe, tiêm vitamin B12 để dự phòng bệnh thiếu máu ác tính.

Trường hợp có triệu chứng: Đa số trường hợp VDDM có nguyên nhân bị nhiễm HP (hiện nhiễm hoặc trong quá khứ). Nếu không xác định MBH được thì thường không chẩn đoán VDDM chỉ dựa trên triệu chứng lâm sàng. Thường chẩn đoán và điều trị theo triệu chứng nổi trội của một hội chứng như rối loạn tiêu hóa chức năng không có loét; bệnh trào ngược dạ dày - thực quản (GERD) hoặc một hội chứng ruột kích thích. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm HP trong các thể bệnh này thường khoảng từ 45-60%. Vì vậy, những trường hợp VDDM hiện đang có nhiễm HP dù không có triệu chứng thì hướng điều trị diệt HP vẫn là hợp lý vì loại bỏ một nguồn gốc tiếp tục gây VDDM nặng hơn có thể dẫn đến các hậu quả xấu như loét và ung thư. Điều trị diệt HP theo phác đồ 3 thuốc (1 thuốc PPI + 2KS) trong 1-2 tuần.

Sau khi diệt HP, nếu các triệu chứng còn tồn tại thì tùy chẩn đoán triệu chứng nổi trội mà xử trí:

- Trong hội chứng rối loạn tiêu hóa chức năng không loét: dùng các thuốc chống co thắt như: trimebutine (debridat); no-spa; mebeverine (duspataline); spasmaverine...; dùng thuốc đồng vận (prokinetic) như: domperidone, metoclopramid .

- Trong trào ngược dạ dày thực quản: chủ yếu dùng các thuốc PPI, chống thụ thể H2.

- Trong hội chứng ruột kích thích (IBS): thuốc tác động hệ thần kinh cảm thụ ngoại vi tegaserod.

Biến chứng của VDDM

VDDM nông chuyển thành viêm teo: Nguy cơ xuất hiện viêm teo từ viêm dạ dày mạn không teo là khoảng 3%. Viêm dạ dày teo là một bệnh nặng, song ít được chú ý vì nó tiến triển chậm và nguy cơ loét dạ dày, ung thư dạ dày sẽ xảy ra khi bị viêm teo nặng.

Biến chứng thông thường: Có 3 loại biến chứng thông thường có thể xảy ra:  xuất huyết: thường là do uống các thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), nhất là ở người có niêm mạc kém bền vững do quá trình viêm teo mạn; thiếu máu do nhiều cơ chế (thiếu sắt thường hay gặp, hiếm hơn là thiếu vitamin B12 dạ dày vô toan, kém hấp thu và rối loạn vi khuẩn chí.

Loét dạ dày, loét tá tràng: Ung thư dạ dày: VDDM teo được coi như một yếu tố dẫn đến UTDD. Nguy cơ bị UTDD tăng lên khi có viêm teo các tuyến nặng ở hang vị (gấp 18 lần so với dạ dày bình thường) và nhất là viêm teo nặng ở cả hang vị và thân vị dạ dày (gấp 90 lần so với dạ dày bình thường).

 

SKĐS