Tiền ĐTĐ là tình trạng đường huyết cao nhưng chưa cao đến mức bị đái tháo đường. Tiền ĐTĐ cũng được biết tới với cái tên rối loạn đường huyết đói (IFG) hoặc rối loạn dung nạp glucose (IGT).
![]() |
Tuyến tụy giúp cân bằng mức độ đường của cơ thể |
Hầu hết những người có đường huyết nằm trong ngưỡng tiền ĐTĐ đều tiến triển lên ĐTĐ type 2 trong vòng 10 năm; 50% người mắc tiền ĐTĐ có nguy cơ bị bệnh tim mạch hoặc đột quỵ. Tiền ĐTĐ có thể kiểm soát được và trong nhiều trường hợp có thể đẩy lùi được thông qua việc điều chỉnh lối sống.
Hiện nay có 2 cách thử để phát hiện, chẩn đoán tiền ĐTĐ.
- Với test thử huyết tương tĩnh mạch đường huyết đói (FPG), người đó nhịn đói qua đêm và lấy máu tĩnh mạch vào sáng hôm sau, trước khi ăn. Đường huyết trong khoảng từ 100 mg/ dL đến 125 mg/dL (hay từ 5.6 đến 6.9 mmol/ L) được coi là tiền ĐTĐ. Người nào có đường huyết đói trên 125 mg/ dL (6.9 mmol/ L) được coi là ĐTĐ. Tuy nhiên người bệnh cần phải làm lại xét nghiệm lần nữa vào một ngày khác để xác định chẩn đoán ĐTĐ.
- Xét nghiệm rối loạn dung nạp glucose (OGTT), người ta làm xét nghiệm đường huyết đói buổi sáng sau một đêm không ăn và làm xét nghiệm lần nữa sau 2 giờ uống một dung dịch chứa đường đặc biệt. Ở người bình thường, đường huyết 2 giờ sau khi uống đường thường dưới 140 mg/dL (7.8 mmol/L); nếu đường huyết nằm trong khoảng từ 140 đến 199 mg/dL (hay từ 7.8 đến 11.1 mmol/ L) thì được coi là rối loạn dung nạp glucose hay tiền ĐTĐ. Đường huyết 2 giờ sau khi uống đường bằng hoặc cao hơn 200 mg/dL (11.1 mmol/L) được coi là ĐTĐ. Tuy nhiên người bệnh cần phải làm lại xét nghiệm lần nữa vào một ngày khác để xác định chẩn đoán ĐTĐ.
Những người có nguy cơ bị tiền ĐTĐ:
- Những người béo phì từ 45 tuổi trở lên (với chỉ số khối cơ thể BMI > 25).
- Những người béo phì tuổi dưới 45 cũng cần được sàng lọc nếu họ có một trong những yếu tố nguy cơ sau: cao huyết áp, tiền sử gia đình có người bị ĐTĐ, nồng độ mỡ trong máu cholesterol tốt (HDL - high-density lipoprotein) thấp và triglyceride cao,
- Tiền sử bị ĐTĐ thai kỳ hoặc đẻ con to trên 4kg,
- Hoặc thuộc chủng tộc có nguy cơ bị ĐTĐ type 2 cao (như người Mỹ gốc Phi, người Mỹ bản xứ, người Mỹ gốc Á/ dân thuộc các đảo ở Thái Bình Dương và người Mỹ gốc Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha, La tinh).
Nếu một người được xét nghiệm sàng lọc tiền ĐTĐ và kết quả đường huyết nằm trong giới hạn bình thường thì nên làm xét nghiệm lại 3 năm một lần. Nếu một người được chẩn đoán tiền ĐTĐ thì nên làm xét nghiệm sàng lọc chẩn đoán ĐTĐ type 2 cứ 1 đến 2 năm một lần.
Trẻ em và thanh niên mới trưởng thành cũng có nguy cơ mắc tiền ĐTĐ.
Ở người lớn được chẩn đoán tiền ĐTĐ, việc thay đổi hành vi lối sống có thể phòng tránh và làm chậm quá trình bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2.
Quản lý tiền ĐTĐ: Quản lý tiền ĐTĐ bao gồm cả thay đổi hành vi lối sống và điều trị huyết áp, mỡ máu như đối với NB ĐTĐ. Đây cũng chính là phác đồ điều trị tiền ĐTĐ toàn diện đầu tiên do các chuyên gia về ĐTĐ và rối loạn chuyển hóa đưa ra.
Vì tiền ĐTĐ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tiến triển thành ĐTĐ type 2, những hướng dẫn này cũng giúp phát hiện và điều trị bệnh ĐTĐ type 2 sớm hơn và hiệu quả hơn.
Hiện nay chưa có phác đồ điều trị bằng thuốc nào được sử dụng cho người mắc tiền ĐTĐ. Để ngăn ngừa bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2, có thể điều trị tiền ĐTĐ bằng 2 hướng.
- Mục tiêu đầu tiên là thay đổi hành vi một cách tích cực để ngăn ngừa bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2.
- Mục tiêu thứ hai là ngăn ngừa biến chứng tim mạch bằng cách điều trị bằng thuốc đối với những người mắc tiền ĐTĐ mà thay đổi lối sống không hiệu quả. Ngoài thuốc hạ đường huyết, có thể phải điều trị cả thuốc hạ huyết áp, hạ mỡ máu vào thời điểm thích hợp. Những người có yếu tố nguy cơ cao với mức đường huyết chạm ngưỡng của người bệnh ĐTĐ, huyết áp cao hoặc mỡ máu cao cần theo dõi các yếu tố nguy cơ chặt chẽ hơn.
1. Sự khác nhau giữa đường huyết bình thường, tiền ĐTĐ và ĐTĐ
Đường huyết được coi là bình thường khi đường huyết đói dưới 100 mg/dL (5.6 mmol/L) và đường huyết sau ăn 2h dưới 140 mg/ dL (7.8 mmol/ L). Được chẩn đoán ĐTĐ khi đường huyết đói lớn hơn hoặc bằng 126 mg/dL (7 mmol/L) và đường huyết sau ăn 2h lớn hơn hoặc bằng 200 mg/dL (11.1 mmol/L); khoảng cách giữa ĐTĐ và không ĐTĐ chưa được định nghĩa rõ ràng. Ở một số người có mức đường huyết chấp chới ngưỡng (ĐH đói trong khoảng từ 100 - 125 mg/dL; ĐH sau ăn 2h từ 140 –-199 mg/dL) cảnh báo nguy cơ có thể mắc bệnh ĐTĐ type 2, bệnh tim mạch và các biến chứng mạch máu nhỏ.
2. Những rủi ro NB có thể mắc phải nếu không điều trị tiền ĐTĐ:
Nguy cơ tử vong do tất cả các nguyên nhân tăng đáng kể nếu ĐH 2h sau ăn tăng từ 95 lên 200 mg/dL. Trong Chương trình Phòng chống bệnh ĐTĐ, khoảng 8% bệnh nhân rối loạn dung nạp đường huyết bị biến chứng võng mạc và 13% trong số họ sẽ bị mắc ĐTĐ.
3. Mục tiêu và phác đồ điều trị tiền ĐTĐ
Mục tiêu thay đổi hành vi lối sống được đặt lên hàng đầu vì nó an toàn và hiệu quả trong kiểm soát đường huyết và giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Mục tiêu điều trị huyết áp và mỡ máu cũng giống như đối với người bệnh ĐTĐ. Người mắc tiền ĐTĐ nên giảm cân nặng từ 5 - 10% và về lâu dài nên duy trì mức cân nặng này, sử dụng các chiến lược như tự theo dõi, đặt mục tiêu điều trị khả thi, từng bước một, kiểm soát các tác nhân kích thích.
Người bị tiền ĐTĐ nên tập thể dục ở mức độ vừa phải khoảng 30 - 60 phút mỗi ngày, tối thiểu 5 ngày trong tuần. Thực hiện chế độ ăn ít chất béo, chất béo bão hòa và phải đủ chất xơ. Giảm bớt muối và tránh đồ uống có cồn để kiểm soát huyết áp.
Đối với những người mắc tiền ĐTĐ với các yếu tố nguy cơ cao, có thể cân nhắc dùng thuốc hạ đường huyết kết hợp với điều chỉnh chế độ ăn uống, tập luyện. Các thuốc metformin và acarbose khá an toàn và làm chậm quá trình tiến triển từ tiền ĐTĐ lên ĐTĐ. TZD cũng ngăn ngừa tiền ĐTĐ tiến triển thành ĐTĐ nhưng vẫn còn một số lo ngại khi dùng thuốc này do các vấn đề liên quan tới suy tim do ứ huyết hoặc gây giòn xương.
Mỡ máu cũng phải được duy trì ở mức mục tiêu điều trị của người bệnh ĐTĐ. Nhóm statin được khuyên dùng để đạt mục tiêu điều trị: 100 mg/dL đối với LDL, 130 mg/dL đối với HDL và 90 mg/dL đối với apolipoprotein B. Fibrates, bile acid sequestrants, ezetimibe và một số loại thuốc khác có thể có tác dụng tốt đối với một số bệnh nhân. Niacin có thể làm giảm mỡ máu nhưng có nhiều nguy cơ gây tăng đường huyết.
Người mắc tiền ĐTĐ cũng phải duy trì mức huyết áp như mức mục tiêu được khuyến cáo hiện nay của người bệnh ĐTĐ (huyết áp tâm thu <130 mm Hg và tâm trương 80 mmHg). Thuốc ức chế men chuyển angiotensin hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin là lựa chọn hàng đầu và thuốc chẹn kênh canxi là lựa chọn thứ hai trong điều trị. Vì tác dụng phụ là hạ đường huyết, nên tránh kê thiazides và/ hoặc chẹn β, nếu có thể.
Nên dùng Aspirin cho tất cả những người mắc tiền ĐTĐ ít nguy cơ bị các bệnh dạ dày, ruột, xuất huyết não hoặc các loại xuất huyết khác.