Vắc xin sởi là sinh phẩm y tế có tính kháng nguyên, cung cấp khả năng phòng ngừa bệnh sởi cho trẻ em và người lớn. Vắc xin sởi được nghiên cứu và điều chế thông qua các thành phần kháng nguyên của virus sởi còn sống, bị giảm độc lực, không còn khả năng gây bệnh nhưng vẫn đảm bảo khả năng gây miễn dịch khi tiêm.

1. Các phản ứng sau khi tiêm vắc xin sởi

- Các phản ứng nhẹ: Đau nhức, sưng đỏ hoặc phát ban tại vị trí tiêm, thường là cánh tay, sốt, sưng hạch ở má hoặc vùng cổ. Đây là những phản ứng có thể gặp trong vòng 2 tuần sau khi tiêm, nhất là với mũi đầu tiên. Khi tiêm mũi 2, các phản ứng này thường ít xảy ra hơn.

- Các phản ứng vừa: Phát ban toàn cơ thể, đau, cứng khớp tạm thời (thường gặp ở thanh thiếu niên hoặc phụ nữ trưởng thành), chảy máu, bầm tím một cách bất thường (do tình trạng giảm tiểu cầu tạm thời gây ra), co giật (do sốt).

- Các phản ứng nặng: Co giật nhiều lần trong thời gian dài, hôn mê, suy giảm ý thức do tổn thương não... Tuy nhiên, đây là những phản ứng rất hiếm khi xảy ra.

- Tình trạng phát ban (ban đỏ, gần giống như ban sởi, nhưng nhẹ hơn) có thể xảy ra 2-10% trẻ tiêm phòng bệnh sởi hoặc rubella. Ban này thường xuất hiện trong khoảng từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 12 sau khi tiêm phòng, có thể kèm theo sốt nhẹ, và thường tự khỏi không cần dùng thuốc.

- Ngất xỉu: người tiêm cần được ngồi hoặc nằm nghỉ trong khoảng 10 - 15 phút, sẽ giúp giảm tình trạng ngất xỉu sau khi tiêm và ngăn ngừa những thương tổn do ngã gây ra.

- Chóng mặt, ù tai, hoặc thay đổi thị lực cũng có thể gặp ở một số người, sau khi tiêm vắc xin.

- Tại vị trí tiêm, một số người có thể thấy đau vai kéo dài và nặng hơn so với đau nhức thông thường sau tiêm. Tuy nhiên, vấn đề này rất hiếm khi gặp.

2. Hướng dẫn theo dõi, chăm sóc, xử trí sau tiêm chủng

2.1. Hướng dẫn chăm sóc tại nhà

Người được tiêm chủng phải được theo dõi tại nhà ít nhất 24 giờ sau tiêm chủng. Các dấu hiệu cần theo dõi sau tiêm chủng bao gồm: Toàn trạng, tinh thần, tình trạng ăn, ngủ, dấu hiệu về nhịp thở, nhiệt độ, phát ban, các biểu hiện tại chỗ (sưng, đỏ).

Đối với trẻ em cần cho trẻ bú mẹ hoặc uống nước nhiều hơn. Bế, quan sát trẻ thường xuyên. Người được tiêm chủng cần được đưa ngay tới cơ sở y tế để theo dõi, điều trị nếu có dấu hiệu tai biến nặng sau tiêm chủng có thể đe dọa đến tính mạng của người được tiêm chủng bao gồm các triệu chứng như khó thở, sốc phản vệ hay sốc dạng phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt cao co giật, trẻ khóc kéo dài, tím tái, ngừng thở.

2.2. Hướng dẫn xử trí các phản ứng thông thường sau tiêm chủng

- Sốt nhẹ (dưới 38,5): Uống nhiều nước, tiếp tục ăn uống bình thường, nằm chỗ thoáng. Một số trường hợp có bệnh lý về tim mạch, viêm phổi hoặc trẻ có tiền sử sốt cao co giật có thể dùng thuốc hạ sốt khi thân nhiệt trên 38,5℃.

- Phản ứng tại chỗ gồm các triệu chứng đỏ và/hoặc sưng tại chỗ tiêm và có thể có 1 hoặc nhiều triệu chứng sau: sưng tới tận khớp xương gần chỗ tiêm nhất, đau, đỏ và sưng trên 3 ngày. Thường tự khỏi trong vòng vài ngày đến 1 tuần. Điều trị triệu chứng với các thuốc giảm đau theo chỉ định.

- Đau khớp kể cả khớp nhỏ.

-  Giảm trương lực, phản xạ, choáng xảy ra trong vòng 48 giờ sau khi tiêm chủng kéo dài từ 1 phút đến nhiều giờ ở trẻ em dưới 10 tuổi với biểu hiện mệt lả, giảm đáp ứng thường thoáng qua và tự khỏi không cần điều trị. Trường hợp xuất hiện tái xanh hay tím ngắt hoặc bất tỉnh cần được đưa đến cơ sở y tế để theo dõi và điều trị tích cực như sốc phản vệ.

- Bầm tím và/hoặc chảy máu do giảm tiểu cầu thường là nhẹ và tự khỏi. Trường hợp nặng cần đưa đến cơ sở y tế để điều trị thuốc steroid và truyền khối tiểu cầu.

Minh Đức (t/h)