Chửa trứng là bệnh của tế bào nuôi, do các gai rau thoái hoá, sưng mọng lên tạo thành các túi chứa dịch dính vào nhau như chùm nho, thường toàn bộ buồng tử cung chứa các túi dịch trông như trứng ếch.

Hiện nay, vẫn chưa rõ nguyên nhân gây chửa trứng, người ta cho rằng chửa trứng là một hiện tượng thai nghén không bình thường, trong đó các tổn thương đã làm trứng hỏng, nhưng gai rau vẫn được nuôi dưỡng bằng máu mẹ, nên tiếp tục hoạt động chế tiết và hậu quả là dịch tích lại trong lớp đệm rau và tế bào nuôi tăng sinh.

Một số yếu tố gây nguy cơ đáng kể như:

- Tuổi người mẹ, nếu tuổi người mẹ mang thai trên 40 tuổi thì 5,2 lần tăng nguy cơ bệnh tế bào nuôi khi so sánh với người phụ nữ mang thai ở tuổi 21 đến 35 và ngược lại tuổi người mẹ dưới 20 thì cũng tăng nguy cơ đáng kể.

- Tiền sử thai nghén lần đầu không bình thường cũng làm tăng nguy cơ bệnh

Tỷ lệ bệnh gặp thường khác nhau giữa các nước, tỷ lệ tăng cao ở các nước Đông Nam Á: Ở Mỹ tỷ lệ gặp chửa trứng là 1:1500 thai nghén, ở Nhật là 1: 522 người có thai, Việt Nam 1: 500 người có thai, Philipin 7:1000 ca đẻ, Malaysia 2,8:1000 ca đẻ.

Dựa vào tổn thương giải phẫu bệnh lý người ta phân ra: 4 loại bệnh của tế bào nuôi: Chửa trứng, Chửa trứng xâm lấn, Ung thư nguyên bào nuôi, và khối u ở vị trí rau bám. Ngoài ra trong chửa trứng người ta phân ra làm hai loại:

Chửa trứng hoàn toàn là loại chửa trứng trong đó các gai rau phình to, mạch máu lông rau biến mất, lớp tế bào nuôi tăng sinh mạnh, không có tổ chức thai. Có sự biến đổi nhiễm sắc thể, bộ nhiễm sắc gồm 46 XX nhưng nguồn gốc từ đơn bội thể của người cha không có sự tham gia của trứng.

Chửa trứng bán phần: Các gai rau phù nề, gồm cả trứng và thai, thai còn sống hoặc đã chết, hoặc một phần thai màng ối. Chửa trứng bán phần thường được chẩn đoán khi sảy thai. Chửa trứng bán phần gồm 69 XXY tam bội thể, khả năng ác tính của chửa trứng bán phần ít hơn chửa trứng toàn phần.

Triệu chứng:

- Ra máu: Là triệu chứng cơ năng quan trọng đầu tiên, thường ra máu sớm trong 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén, huyết thường đen, hoặc đỏ, ra dai dẳng dẫn tới thiếu máu.

- Nghén nặng: Thường biểu hiện nôn nhiều đôi khi xuất hiện phù, Protein niệu.

- Thực thể: Tử cung to, không tương xứng với tuổi thai, mật độ mềm, thường tử cung to hơn so với tuổi thai (trừ loại chửa trứng thoái hoá tử cung không to hơn so với tuổi thai) tim thai không nghe thấy.

Khám âm đạo: Có thể thấy nhân di căn âm đạo, to bằng ngón tay màu tím sẫm, dễ vỡ gây chảy máu, khám phần phụ có thể thấy nang hoàng tuyến hai bên mọng, di động dễ.

Xét nghiệm: Lượng HCG tăng cao trên 100.00UI/L (trên 30 000 đơn vị ếch nhưng hiện rất ít dùng).

Siêu âm: Có thể thấy nhiều âm vang trong buồng tử cung, không có âm vang thai, có thể thấy hình lỗ chỗ trong khối rau như hình ảnh tuyết rơi, thấy nang hoàng tuyến hai bên.

Chẩn đoán: Dựa vào các triệu chứng sau đây để chẩn đoán xác định.

- Chảy máu dai dẳng, trong 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén.

- Tử cung to không tương xứng với tuổi thai, thường to hơn tuổi thai.

- Không nắn thấy phần thai, qua siêu âm không có âm vang thai.

- Có thể có nang hoàng tuyến ở một hay hai bên buồng trứng.

- Nồng độ HCG tăng cao.

Chẩn đoán phân biệt: Chửa trứng có thể nhầm với.

- Doạ sảy thai thường: Tử cung không to hơn tuổi thai, lượng HCG không cao.

- Thai chết lưu, tử cung nhỏ hơn so với tuổi thai, có tiết sữa non, HCG âm tính, tuy vậy thai chết lưu có thể nhầm với chửa trứng thoái triển.

Siêu âm giúp ta xác định và chẩn đoán phân biệt chính xác.

 Nếu không chẩn đoán sớm và xử lý kịp thời có thể gây băng huyết do sảy trứng, nguy hiểm tính mạng tới bệnh nhân. Thủng tử cung do trứng ăn sâu vào cơ tử cung gây chảy máu vào ổ bụng. Ung thư nguyên bào nuôi: tỷ lệ thường gặp là 15 đến 17 % có biến chứng thành Chirio sau chửa trứng.

Xử trí:

Khi đã chẩn đoán là chửa trứng thì phải nạo hút đề phòng sảy thai tự nhiên gây băng huyết. Cần làm tại cơ sở có khả năng phẫu thuật.

- Thường dùng máy dưới áp lực chân không để hút nhanh đỡ chảy máu. Trong khi hút trứng phải truyền huyết thanh ngọt đẳng trương 5% pha 5 đơn vị Oxytocin để giúp tử cung co hồi tốt tránh tổn thương tử cung khi nạo và cầm máu, chỉ ngừng truyền khi hết chảy máu âm đạo.

- Sau 2-3 ngày nạo lại lần 2 nếu cần.

- Cắt tử cung: Thường cắt tử cung đối với phụ nữ không muốn có con nữa hoặc những phụ nữ trên 40 tuổi. Người ta nhận thấy rằng cắt tử cung dự phòng sau nạo trứng đã giảm tỷ lệ biến trứng ác tính xấp xỉ 3,6 % trong số 20 % phụ nữ được mổ sau nạo trứng.

 Tuy vậy sau cắt tử cung vẫn chưa loại trừ những biến chứng ác tính do đó cần phải được theo dõi nồng độ HCG sau mổ lâu dài.

Theo dõi sau nạo trứng

- Ngay sau khi nạo trứng, phải gửi tổ chức nạo để xét ngiệm giải phẫu bệnh lý xem chửa trứng ác tính hay lành tính.

- Theo dõi về lâm sàng:  Sau nạo phải khám để theo dõi sự co hồi của tử cung, nang hoàng tuyến, nhân di căn, nếu thấy tử cung vẫn to nang hoàng tuyến không mất đi thì phải nghĩ tới có biến trứng ác tính hoặc thấy xuất hiện có nhân di căn thì càng chắc chắn hơn. Thời gian theo dõi 6 tháng đầu 1 tháng/lần, sau đó 2 tháng/lần đến 1 năm, 3 tháng một lần cho năm thứ 2.

- Cần theo dõi HCG: sau nạo trứng phải định lượng HCG 1 tuần/lần trong tháng đầu cho đến khi âm tính. Sau đó hàng tháng thử khi khám theo dõi.

Tiêu chuẩn đánh giá chửa trứng nguy cơ cao

1. Kích thước tử cung nạo trước to hơn tuổi thai 20 tuần.

2. Có hai nang hoàng tuyến to hai bên.

3. Tuổi của mẹ trên 40 tuổi.

4. Nồng độ HCG cao.

5. Có biến chứng của thai trứng như: Nhiễm độc thai nghén, Cường giáp...

6. Chửa trứng lặp lại.

Tác giả: Trung tâm TTGDSK