Viêm màng não do Não mô cầu là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Neisseria meningitidis xâm nhập gây nên. Bệnh diễn biến cấp tính, tỉ lệ tử vong cao nếu không được phát hiện và điều trị đúng cách, kịp thời.
![]() |
Vi khuẩn não mô cầu có hình hạt cà phê. |
Bệnh xuất hiện chủ yếu vào các mùa thu, đông và xuân, có thể gây thành dịch. Bệnh lưu hành ở hầu hết các tỉnh thành, nhiều nhất ở các tỉnh phía Bắc. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng trẻ em là nhóm có nguy cơ cao.
Bệnh lây truyền từ người sang người qua nước bọt nên có thể thành dịch, nhất là trong các nhà trẻ, gia đình, khu phố.
I/ Đặc điểm vi khuẩn và dịch tễ học:
- Là vi khuẩn nội bào, song cầu hình hạt cà phê.
- Dễ bị tiêu diệt bởi nhiệt độ 500C trong 5 phút, 1000C chỉ trong 30 giây.
- Dễ bị tiêu diệt bởi các hóa chất thông thường: cloramin B, T…
- Các nhóm vi khuẩn thường gặp là nhóm A,B.C,Y,W 135. Việt Nam và Châu Âu thường gặp nhóm A,B.
- Nguồn bệnh duy nhất là người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn không triệu chứng.
- Theo một nghiên cứu, có đến 40% người lớn mang não mô cầu trong khoang mũi họng, nhưng chỉ có một số ít người bị bệnh. Bệnh được truyền qua các hạt nước bọt. Biểu hiện bệnh có thể là nhiễm khuẩn huyết não mô cầu (là một thể chớp nhoáng của nhiễm khuẩn máu mà không có viêm màng não) hoặc nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não, viêm màng não mủ là chủ yếu, có thể gặp nhiễm khuẩn huyết não mô cầu mạn tính tái phát với sốt, nổi ban và viêm khớp.
II/ Biểu hiện lâm sàng
1/ Thời kỳ ủ bệnh:
Sau khi não mô cầu xâm nhiễm vào cơ thể, thời gian ủ bệnh từ 1-10 ngày, thường gặp 5-7 ngày. Biểu hiện chủ yếu sốt, viêm mũi họng.
2/ Thời kỳ toàn phát: Bệnh biểu hiện rất đa dạng với nhiều thể bệnh: viêm mũi họng, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não, tổn thương ở nhiều cơ quan. Thường gặp các thể bệnh như sau:
1.1/ Thể viêm mũi họng: bệnh nhân sốt 38-390C, kéo dài 1-7 ngày, đau đầu, rát họng, chảy nước mũi. Khám thấy xung huyết niêm mạc mũi, họng có khi phủ một lớp mủ. Xét nghiệm thấy bạch cầu đa nhân trung tính tăng.
1.2/ Thể nhiễm khuẩn huyết: bệnh nhân sốt cao đột ngột 40-410C, sốt liên tục hoặc sốt dao động mạnh kèm theo những cơn rét run; đau đầu, đau mỏi cơ khớp toàn thân. Ban xuất huyết xuất hiện sớm khoảng 5-15 giờ sau khi phát bệnh hoặc muộn hơn sau vài ngày. Các ban xuất huyết thường xuất hiện trước tiên ở chi dưới và các điểm tì đè, gặp trong hầu hết mọi trường hợp. Xuất huyết có thể thay đổi, từ kích thước bằng đầu kim đến mảng xuất huyết lớn, thậm chí từng vùng xuất huyết hoại tử da làm bong da, bì tổ chức dưới sâu. Gan lách to. Huyết áp càng những ngày sau càng giảm rõ, có thể tụt huyết áp nếu bị sốc.
1.3/ Thể viêm màng não: thường xảy ra sau viêm mũi họng, nhiễm khuẩn huyết hoặc khởi phát đã là triệu chứng của viêm màng não. Bệnh nhân cũng bị sốt đột ngột 39- 400C, mệt mỏi, đau đầu nhiều, nôn vọt. Bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê. Khám thực thể thấy cứng gáy, cứng cổ điển hình với dấu hiệu Kernig (đau khoeo làm chân co lại khi nâng thẳng 2 chân lên một góc 900C so với thân) và dấu hiệu Brudzinski (đầu gối co lại khi nâng cổ cao lên khỏi mặt giường).
1.4/ Thể ở trẻ em và người già: Trẻ em và người già có thể bị bệnh viêm màng não do não mô cầu nhưng triệu chứng không điển hình, không sốt, không cứng cổ.
Nhận biết sớm bệnh viêm não mô cầu
Rất khó có dấu hiệu sớm để nhận biết bệnh viêm não mô cầu bởi các triệu chứng giống các trường hợp nhiễm vi khuẩn khác với biểu hiện đau họng, đau mỏi người. Nếu diễn tiến nặng hơn, bệnh gây biến chứng viêm não mô cầu thể viêm não mủ thì biểu hiện giống như những ca viêm não mủ bình thường khác, gồm các triệu chứng: sốt, đau hôn mê. Còn khi vi khuẩn não mô cầu gây biến chứng nhiễm khuẩn huyết, người bệnh có biểu hiện ban hoại tử dưới da.
III./Điều trị
Cần dùng ngay kháng sinh sau cấy máu, trước cả khi chọc dò tủy sống. Thuốc được khuyên dùng là Penicillin G, Ampicillin, Lincocin, Oxacilin, Cephalosporin thế hệ 3, thời gian điều trị là 7-10 ngày. Nếu bệnh nhân dị ứng với penicillin hoặc nghi ngờ có viêm màng não do H.influenzae hoặc các vi khuẩn gram âm khác thì có thể dùng ceftriaxon. Thuốc điều trị hỗ trợ tim mạch, truyền dịch giải độc và điều chỉnh điện giải. Nếu bệnh nhân nặng và có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ rõ rệt thì có thể dùng corticoid trong một vài ngày đầu.
Để tránh lây lan (qua đường hô hấp), cần đeo khẩu trang khi đi ngoài đường, hạn chế chỗ đông người, giữ gìn vệ sinh sạch sẽ và ăn uống tốt để nâng cao sức đề kháng.
VI./ Phòng bệnh:
Đây là bệnh phòng ngừa được bằng vaccin. Vaccin được đóng gói dưới dạng đông khô liều đơn hoặc nhiều liều cùng với dung môi pha hồi chỉnh đi kèm. Sau khi pha hồi chỉnh, vaccin là một dung dịch trong suốt. Vaccin viêm màng não do não mô cầu có đặc điểm tương tự như các vaccin polysaccharid khác (vaccin phế cầu) mà một trong những đặc điểm quan trọng nhất là đáp ứng của cơ thể với vaccin phụ thuộc vào tuổi người được tiêm.
Sau khi tiêm vaccin khoảng 7-10 ngày, nồng độ kháng thể đạt tới mức đủ để bảo vệ người được tiêm. Đối với những trẻ dưới 5 tuổi, kháng thể chống lại vi khuẩn giảm đáng kể sau 3 năm nếu tiêm 1 mũi duy nhất. Các nghiên cứu cho thấy khả năng sinh miễn dịch kém nếu tiêm cho trẻ dưới 2 tuổi. Tiêm nhắc lại có thể được chỉ định cho những người có nguy cơ bị nhiễm bệnh cao (ví dụ người hiện đang sống trong vùng có vụ dịch xảy ra), đặc biệt là những trẻ khi được tiêm liều vaccin thứ nhất lúc dưới 4 tuổi. Những trẻ này nên được tiêm nhắc lại sau 2-3 năm nếu chúng vẫn có nguy cơ bị bệnh cao.
- Thực hiện tốt vệ sinh nơi ở: thông thoáng nơi ở, nơi làm việc.
- Chủ động tiêm phòng vaccin phòng bệnh.
- Khi có biểu hiện sốt cao, đau đầu, buồn nôn và nôn, cổ cứng, cần đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị.
- Khi phát hiện người nghi ngờ mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu cần thông báo theo đường dây nóng của y tế địa phương để được điều tra giám sát xử lý kịp thời.
- Nếu trong tập thể xuất hiện viêm màng não do não mô cầu được xác định, cần hạn chế tụ họp, mọi người thực hiện đeo khẩu trang phòng bệnh. Ngoài ra có thể tổ chức uống kháng sinh dự phòng khẩn cấp theo chỉ định của bác sĩ.
Trung tâm TTGDSK