Sỏi mật là trong lòng ống mật có những viên sỏi to, nhỏ hay bùn mật ở vị trí trong gan hoặc ngoài gan ở túi mật. Bệnh có thể gây viêm phúc mạc mật, chảy máu tiêu hóa gây nguy hiểm cho sức khoẻ và tính mạng của người bệnh.
* Quá trình hình thành sỏi mật:
Có hai loại sỏi mật thường được hình thành là Sỏi Cholesterol và Sỏi sắc tố mật.
- Loại Sỏi Cholesterol: Vì nguyên nhân nào đó làm cho các thành phần dịch mật thay đổi tỷ lệ: nồng độ Cholesterol tăng, nồng độ chất làm tan (muối mật) giảm, lúc đó Cholesterol kết tủa tạo ra những tinh thể là tiền đề cho sự hình thành sỏi mật.
- Loại Sỏi sắc tố mật: nguyên nhân do giun đũa hoặc xác giun làm "nhân" cho sắc tố mật và canxi bám vào gây sỏi. Nếu giun đũa lên đường mật, nó gây nhiễm khuẩn và tăng áp lực trong đường mật, gây ra những vết loét xước. Phía trên vòng xơ ống mật giãn to, mật bị ứ đọng, dần dần từ đó hình thành sỏi mật.
* Biểu hiện của sỏi mật:
Đau bụng ở hạ sườn phải, kiểu đau quặn gan, thường xảy ra sau bữa ăn nhiều mỡ, đau nhiều về đêm. Khi đau kèm theo nôn, cơn đau kéo dài vài giờ đến vài ngày. Rối loạn tiêu hóa: chậm tiêu, bụng chướng hơi, táo bón hoặc tiêu chảy sau bữa ăn. Cơn đau nửa đầu dữ dội, sốt do bị viêm đường mật, túi mật (nếu không bị viêm thì không sốt), sốt cao đột ngột kéo dài vài giờ. Vàng da và niêm mạc xảy ra sau khi đau và sốt từ 1-2 ngày, vàng da kiểu tắc mật gồm: da, niêm mạc vàng, nước tiểu vàng, phân bạc màu. Vàng da có ngứa (thuốc chống ngứa không có kết quả), mạch chậm. Vàng da mất đi chậm hơn đau và sốt. Xét nghiệm máu: Bilirubin toàn phần tăng; Siêu âm thấy sỏi túi mật; Chụp Xquang thấy sỏi. Đi khám thấy đau khi sờ nắn, có thể co cứng hạ sườn phải.
Thường gặp ba thể bệnh chính như sau:
- Một là: Trường hợp điển hình có tam chứng Charcot (đau, sốt, vàng da), hội chứng tắc mật, bệnh tái phát nhiều lần với các triệu chứng như trên.
- Hai là: Triệu chứng lâm sàng không điển hình: có cơn đau quặn gan, không vàng da, không tắc mật, hoặc tắc mật nhưng không đau quặn gan.
- Ba là: Người bệnh bị sỏi nhưng đến bệnh viện cấp cứu vì biến chứng như: Viêm phúc mạc mật với các dấu hiệu nhiễm khuẩn nặng, vàng da, sốt, túi mật to, đau, chảy máu tiêu hóa, nôn ra máu có hình thỏi kiểu như ruột bút chì, đau bụng cấp, trướng bụng.
* Điều trị:
Dựa vào kháng sinh đồ để dùng thuốc vừa hiệu quả, vừa rút ngắn thời gian. Trường hợp chưa làm được kháng sinh đồ thì phải dùng các loại kháng sinh có hoạt phổ rộng, liều cao như: Colistin, Cephurlosporin, Ampixillin... Các thuốc giãn cơ, giảm co thắt như: Atropin, Spasmaverin... ; thuốc lợi mật như: Sunfat magie, Siroactiso, Sarbitol...Các thuốc làm tan sỏi dùng trong các trường hợp viên sỏi nhỏ dưới 2cm, túi mật còn tốt, người bệnh không thể mổ được hoặc đề phòng sỏi tái phát sau mổ. Phẫu thuật trong các trường hợp: Sỏi gây viêm túi mật hoạt tử, viêm phúc mạc mật, viêm tụy cấp, chảy máu đường mật, áp xe đường mật dọa vỡ. Viêm đường mật kéo dài, tái phát nhiều lần, sỏi túi mật...Người bệnh bị sỏi mật cần thực hiện chế độ ăn kiêng hợp lý: kiêng ăn mỡ nhất là các loại mỡ động vật...Ăn giảm calo, uống các loại nước thuốc nam có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh như: nước khoáng, nước nhân trần, Actiso.
* Phòng bệnh:
Khám bệnh định kỳ để kịp thời phát hiện và điều trị các bệnh là nguyên nhân gây sỏi mật. Kiểm soát ăn uống chống thừa cân béo phì; tránh ăn chế độ giàu calo. Định kỳ tẩy giun 6 tháng một lần. Thực hiện ăn chín uống sôi để tránh nhiễm giun.