HIV/AIDS vẫn là một trong những vấn đề y tế – xã hội nghiêm trọng mang tính toàn cầu. Tại Việt Nam, sau hơn ba thập kỷ ứng phó, công tác phòng, chống HIV/AIDS đã đạt được nhiều kết quả tích cực, giúp kiềm chế và kiểm soát tốc độ lây lan của dịch. Tuy nhiên, dịch vẫn có những diễn biến phức tạp, đòi hỏi những biện pháp như xét nghiệm sớm, điều trị kịp thời để hướng tới mục tiêu chung tay chấm dứt HIV/AIDS vào năm 2030.

Thực trạng nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay

Việt Nam đã triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ đa dạng và linh hoạt. Chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự, cộng đồng người nhiễm HIV và các đối tác phát triển phối hợp chặt chẽ, tiếp tục nỗ lực giảm kỳ thị và phân biệt đối xử để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm nguy cơ cao tiếp cận và sử dụng các dịch vụ phòng ngừa và điều trị HIV.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn ghi nhận gia tăng số người nhiễm HIV, đặc biệt nghiêm trọng khi dịch bệnh đang tấn công mạnh vào nhóm thanh niên - lực lượng lao động chính của xã hội. Trong 9 tháng đầu năm 2025, cả nước ghi nhận 6.973 người nhiễm HIV phát hiện mới và 1.108 người nhiễm HIV tử vong. Số người nhiễm HIV đang còn sống là 251.958 trường hợp; tổng số người nhiễm HIV tử vong lũy tích là 117.112 trường hợp. Trong số trường hợp nhiễm HIV mới phát hiện, nam giới chiếm phần lớn khoảng 83,2% vào năm 2023 (trong độ tuổi từ 16 - 29 và 30 - 39 tuổi chiếm 70% số trường hợp nhiễm HIV được báo cáo. Trong đó, nhóm 16 - 29 tuổi chiếm 37,7% năm 2024).

Trong những năm gần đây, hình thái lây nhiễm HIV thay đổi rõ rệt từ lây truyền qua đường máu ở nhóm nghiện chích ma túy sang lây truyền qua đường tình dục. Nhóm MSM liên tục chiếm tỷ lệ cao trong số mới phát hiện hằng năm (trên 40%). 

Những khó khăn còn tồn tại trong việc kiểm soát lây truyền HIV/AIDS ở Việt Nam

Trong những năm qua, mặc dù Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp can thiệp giảm tác hại tuy nhiên dịch HIV vẫn đang diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng trong nhóm thanh thiếu niên trẻ, nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM). Sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và sự hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư còn thấp, đã và đang là rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS của cả người nhiễm HIV và các nhóm đích nguy cơ cao.

Các rào cản về tài chính và địa lý cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ của những nhóm đích nguy cơ cao. Nhiều người trong các nhóm nguy cơ cao thường có thu nhập thấp và không có khả năng chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Đồng thời, vấn đề giao thông và khoảng cách địa lý cũng là một trở ngại đối với những người sống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Giải pháp phòng, chống HIV/AIDS hướng tới năm 2030 – Xét nghiệm sớm, điều trị kịp thời, chung ta chấm dứt HIV/AIDS

Để đạt mục tiêu "chấm dứt dịch AIDS như một vấn đề y tế công cộng vào năm 2030", Việt Nam đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ theo Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS. Trọng tâm là mở rộng xét nghiệm và phát hiện sớm, hướng tới để ít nhất 95% người nhiễm HIV biết tình trạng của mình. Việc xét nghiệm HIV sớm mang lại nhiều lợi ích: giúp người nhiễm phát hiện kịp thời, nhanh chóng tiếp cận điều trị, bảo vệ sức khỏe và giảm nguy cơ lây truyền cho người thân. Hiện nay, việc xét nghiệm HIV đã trở nên thuận tiện và hoàn toàn bảo mật, Mọi thông tin của người xét nghiệm đều được giữ kín, giúp họ yên tâm khi tiếp cận dịch vụ.

Song song, Việt Nam đẩy mạnh điều trị bằng thuốc kháng vi rút (ARV) cho mọi người nhiễm HIV ngay sau khi phát hiện, nhằm đạt ức chế tải lượng vi rút, giảm nguy cơ lây truyền và tử vong. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong chương trình PEPFAR tại châu Á tự chủ tài chính điều trị HIV thông qua bảo hiểm y tế, giúp 85%  người đang điều trị ARV được chi trả thuốc qua bảo hiểm y tế đầy đủ.

Các biện pháp dự phòng tiên tiến như PrEP (dự phòng trước phơi nhiễm) và PEP (dự phòng sau phơi nhiễm) tiếp tục được mở rộng trong nhóm nguy cơ cao, cùng với việc cung cấp bao cao su và bơm kim tiêm sạch tại cộng đồng. Bên cạnh đó, công tác truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi được đẩy mạnh nhằm giảm kỳ thị và phân biệt đối xử, khuyến khích người dân chủ động xét nghiệm, điều trị và dự phòng.

Việt Nam đã đi một chặng đường dài trong cuộc chiến với HIV/AIDS, từ chỗ bị động đối phó đến chủ động kiểm soát, mở rộng điều trị và dự phòng. Nhưng để giữ vững thành quả ấy, cần một chiến lược bền vững, kết hợp giữa nguồn lực trong nước và sự đồng hành của cộng đồng quốc tế. Với sự hợp lực của công-tư và cộng đồng sẽ tạo "điểm tựa" cho những người yếu thế trước HIV được điều trị dự phòng trước phơi nhiễm, điều trị HIV kịp thời để họ "tái sinh" cuộc đời mới một cách bình thường nhất, khỏe mạnh nhất và được sống trong cộng đồng không còn kỳ thị hay gặp rào cản trong tiếp cận dịch vụ y tế thân thiện./.

Minh Đức (t/h)