Suy dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em đang là vấn đề thời sự ở các nước nghèo và đang phát triển. Hiện nay, trên thế giới mỗi năm có hàng triệu bà mẹ và trẻ em tử vong do các nguyên nhân liên quan đến dinh dưỡng và có các biểu hiện kém phát triển về thể chất, tinh thần do bị suy dinh dưỡng từ khi nhỏ.
Xem hình

Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam đã được cải thiện nhưng vẫn còn cao

Theo thống kê Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Việt Nam là một trong 36 nước trên thế giới có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi cao. Các nghiên cứu về nhân trắc thể lực của người Việt Nam trong thế kỷ XX cho thấy trong khoảng gần 50 năm (1938-1985) không có các biểu hiện gia tăng về tầm vóc thể lực, chiều cao người trưởng thành gần như đứng yên: khoảng 160cm ở nam và 150cm ở nữ. Tuy nhiên, thời gian gần đây con số đó đã được cải thiện, ước đạt 1,2cm/thập kỷ ở nam trưởng thành và 1cm/thập kỷ ở nữ trưởng thành, đưa chiều cao hiện nay của nam trưởng thành lên khoảng 163,7cm và nữ lên 153cm.

Kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia: trong những năm đầu của thập kỷ 1980 khoảng 51,5% trẻ em < 5 tuổi bị suy dinh dưỡng nhẹ cân, gần 60% (59,7%) trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi , khoảng 50% bà mẹ mang thai bị thiếu máu, hàng năm khoảng 5.000-7.000 trẻ bị mù do thiếu vitamin A… Và đến nay, theo kết quả của Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc năm 2009 cho thấy khoảng 18,9% trẻ < 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và khoảng 31,9% bị suy dinh dưỡng thể thấp còi. Như vậy, giảm suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em đi song song với gia tăng tăng trưởng ở cả trẻ em và người trưởng thành Việt Nam.

 Tuy tình trạng dinh dưỡng của trẻ em đã được cải thiện nhưng vẫn còn cao. Theo kết quả của Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2009 vẫn còn khoảng 1,54 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng nhẹ cân và khoảng 2,59 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng thấp còi.

Dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai và 2 năm đầu đời là thời cơ “vàng” để cài thiện thể lực

Các bằng chứng khoa học đã cho thấy, những năm đầu tiên của cuộc đời (từ trong bụng mẹ đến 2 tuổi), nếu trẻ bị suy dinh dưỡng có thể để lại những hậu quả về thể chất và tinh thần không phục hồi được và kéo sang thế hệ sau. Suy dinh dưỡng không những ảnh hưởng trước mắt, trực tiếp đến phát triển của trẻ mà còn dẫn đến những hậu quả không thể sửa chữa được như tầm vóc người trưởng thành thấp bé, kết quả học tập kém, giảm khả năng lao động của người lớn và ảnh hưởng tới thu nhập quốc dân. Các kết luận còn cho thấy thời cơ “vàng” để các can thiệp có hiệu quả là thời kỳ mang thai và 2 năm đầu tiên của cuộc đời. Nếu không can thiệp sớm, suy dinh dưỡng có thể gây ra các tổn thương không hồi phục cho sự phát triển về sau đến tuổi trưởng thành. Ở trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi, sự tăng cân nhanh sau đó dễ dẫn đến tình trạng béo phì và tăng nguy cơ với các bệnh mạn tính. Do vậy, việc chăm sóc người mẹ trong khi mang thai có ý nghĩa quan trọng. Trước hết người mẹ cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý, uống viên sắt và acid folic để phòng thiếu máu dinh dưỡng và dị tật ống thần kinh của thai nhi, uống sữa để có thêm can xi. Sau khi sinh, việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ đến 6 tháng tuổi có vai trò quan trọng nhất. Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên không gì thay thế được. Trong sữa mẹ nhất là trong sữa non có chứa nhiều kháng thể nâng cao sức đề kháng của trẻ. Trẻ được nuôi bằng sữa mẹ phát triển hài hòa cả cân nặng và chiều cao, còn ở trẻ nhân tạo dễ bị béo phì. Bên cạnh đó việc tư vấn ăn bổ sung hợp lý tỏ ra rất có hiệu quả đối với giảm tỷ lệ thấp còi. Đối với các đối tượng thiếu đảm bảo an ninh thực phẩm cần có thêm các hỗ trợ thực phẩm. Thức ăn bổ sung cần cân đối các chất dinh dưỡng sinh năng lượng và đủ các vi chất cần thiết (vitamin và muối khoáng), đặc biệt chú ý tới vai trò của vitamin A, sắt và kẽm. Cùng với nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý, các chương trình bổ sung, tăng cường vitamin A và kẽm (cho trẻ bị tiêu chảy) cùng với tẩy giun là các can thiệp dinh dưỡng có hiệu quả cao nhất ở cộng đồng để giảm tử vong và gánh nặng bệnh tật về sau liên quan đến suy dinh dưỡng. Giảm thiếu máu do thiếu sắt và thiếu iod có ảnh hưởng đến phát triển trí tuệ và khả năng lao động về sau.

Vì thế, các chuyên gia y tế khuyến cáo, để giảm thấp còi, các can thiệp cần tác động vào tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của cả bà mẹ lẫn của trẻ em, đặc biệt là bà mẹ trong giai đoạn mang thai và trẻ em từ khi còn trong bào thai cho tới giai đoạn dưới 2 tuổi. Suy dinh dưỡng thể thấp còi là một trong những chỉ số đánh giá nguồn nhân lực cho tương lai và thấp còi liên quan chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Đầu tư cho can thiệp phòng chống thấp còi là đầu tư dài hạn, mang lại lợi ích cho thế hệ hiện nay cũng như sau này.

Giải pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng

Nhằm giảm suy dinh dưỡng thể thấp còi góp phần nâng cao tầm vóc của người Việt Nam, Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 đang được hoàn thiện và trình Chính phủ phê duyệt với mục tiêu tổng quát là “Đến năm 2020, bữa ăn của người dân được cải thiện về số lượng, cân đối hơn về chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh; đẩy mạnh giảm suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt thể thấp còi, góp phần nâng cao tầm vóc và thể lực của người Việt Nam đồng thời kiểm soát có hiệu quả tình trạng thừa cân – béo phì góp phần hạn chế các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng”. Dự thảo Chiến lược đã nêu rõ định hướng giải pháp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng, đặc biệt là giảm suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em Việt Nam.

Một là, thực hiện chăm sóc dinh dưỡng theo tiếp cận “chu kỳ vòng đời”, quan tâm chăm sóc đặc biệt tới các phụ nữ trước khi có thai, trong khi có thai góp phần giảm suy dinh dưỡng bào thai. Đây là điểm mấu chốt của chiến lược can thiệp. Các chăm sóc dinh dưỡng cần tập trung vào hơn vào nhóm nữ vị thành niên, phụ nữ có thai với 2 vấn đề: giải quyết thiếu vi chất dinh dưỡng và thiếu năng lượng trường diễn. Các giải pháp bao gồm bổ sung sắt/axit folic, phòng chống giun sán, giáo dục dinh dưỡng, chăm sóc thai sản và thay đổi thực hành vệ sinh, thực hành dinh dưỡng khi có thai, nuôi con bú.

Hai là, thực hiện chăm sóc trẻ em ngay từ khi sinh, tập trung chăm sóc trong 2 năm đầu với các giải pháp về nuôi con bằng sữa mẹ, thức ăn bổ sung, bổ sung vitamin A, vệ sinh, phòng chống nhiễm giun, theo dõi biểu đồ tăng trưởng cả về chiều cao và cải thiện chất lượng chăm sóc khi trẻ bị bệnh, chăm sóc tại gia đình cũng như tại các nhà trẻ, mẫu giáo.

Ba là, ưu tiên nguồn lực cho các địa phương đặc biệt khó khăn về phát triển kinh tế xã hội, các địa phương khó khăn về địa lý, về khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế và xã hội về mặt đầu tư gồm: huấn luyện nguồn nhân lực, trang thiết bị, vật liệu truyền thông, các sản phẩm dinh dưỡng (food supplementation) và phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn, ký sinh trùng thường gặp.

Bốn là, duy trì và mở rộng chương trình quốc gia phòng chống suy dinh dưỡng, nhấn mạnh thêm các nội dung chăm sóc tới hộ gia đình, lồng ghép vào chương trình xóa đói giảm nghèo hiện nay, đưa chương trình dinh dưỡng vào các chương trình hành động của các đoàn thể xã hội, kết hợp nhiều tiếp cận khác nhau (tăng cường sắt vào nước mắm, gạo, bột mỳ, thức ăn bổ sung), tăng cường cam kết của Nhà nước, các cấp ủy Đảng, ban ngành đoàn thể đối với phòng chống suy dinh dưỡng.

Năm là, vận động xã hội là một nội dung rất quan trọng trong chương trình dinh dưỡng nói chung và phòng chống suy dinh dưỡng thấp còi nói riêng. Tăng cường hợp tác về mọi mặt với các nước trong khu vực và trên thế giới, các tổ chức quốc tế, tổ chức không chính phủ, các tổ chức Liên hợp quốc và các doanh nghiệp tham gia trong hoạt động phòng chống suy dinh dưỡng ở Việt Nam.

Sáu là, thực hiện tốt công tác giám sát triển khai, giám sát hoạt động, đánh giá hiệu quả của các can thiệp đi song song với các giải pháp về kỹ thuật và giải pháp xã hội hóa.

Tác giả: Trung tâm TTGDSK