Mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) là tình trạng số trẻ em trai sinh ra nhiều hơn hoặc ít hơn so với mức cân bằng tự nhiên (tỷ số giới tính khi sinh tự nhiên là khoảng 102-106 bé trai/100 bé gái). Tại Việt Nam, tình trạng MCBGTKS bắt đầu có từ khoảng năm 2006. Tuy xuất hiện muộn hơn một số nước nhưng tỷ số này tăng nhanh và lan rộng, xảy ra ở cả thành thị và nông thôn. Xét ở phạm vi vùng kinh tế - xã hội, năm 2006 có 3/6 vùng MCBGTKS thì đến năm 2021 cả 6/6 vùng đã bị MCBGTKS. Ước tính nếu MCBGTKS vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, đến năm 2034, Việt Nam sẽ thừa 1,5 triệu nam giới, con số này sẽ tăng lên 1,8 triệu vào năm 2059.

MCBGTKS không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, gia đình, dòng tộc mà còn để lại những hệ lụy tác động trực tiếp đến đời sống, xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước thậm chí cả an ninh chính trị quốc gia... Về mặt xã hội, tác động chính của hiện tượng mất cân bằng giới tính là làm thay đổi cấu trúc gia đình. Nam giới trẻ tuổi sẽ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời dẫn đến trì hoãn hôn nhân hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân. Hệ quả gây ra là sự bất ổn xã hội, tăng các tệ nạn như mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và các loại tội phạm khác.

Mặt khác, thực tế cho thấy, mặc dù hiện nay người phụ nữ đã và đang từng bước khẳng định vị thế của mình bằng những đóng góp to lớn trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, trong gia đình và cộng đồng, nhưng nhận thức về vai trò của phụ nữ và bình đẳng giới vẫn còn những hạn chế nhất định. Tình trạng "trọng nam hơn nữ" vẫn còn nặng nề. Phụ nữ và trẻ em gái, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi còn chịu nhiều thiệt thòi hơn trẻ em trai cũng như so với trẻ em gái ở khu vực thành thị về cơ hội học tập, tiếp cận thông tin. Điều này không chỉ làm giảm tiềm năng cá nhân mà còn tạo ra rào cản lớn đối với việc nâng cao vị thế của phụ nữ trong hiện tại và tương lai.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến MCBGTKS, nhưng nguyên nhân cốt lõi vẫn là định kiến giới. Tư tưởng trọng nam hơn nữ đã “ăn sâu, bám rễ” vào tiềm thức của mỗi cá nhân và trở thành quan niệm truyền thống của người Việt Nam. Bên cạnh đó, hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi của nước ta chưa phát triển, nhiều người vì thế sẽ cảm thấy lo lắng cho tương lai và bất an khi về già nếu không có con trai. Chính vì vậy, kiểm soát MCBGTKS không phải là vấn đề có thể giải quyết ngắn hạn mà cần có chiến lược lâu dài, đặc biệt là phải có sự vào cuộc đồng bộ và thống nhất của cả hệ thống chính trị.

Tại Ninh Bình, tỷ số giới tính khi sinh hiện nay của tỉnh là 112,3 trẻ trai/100 trẻ gái. So với khu vực, đây cũng là một con số khá cao mà nếu không có những giải pháp phù hợp sẽ để lại những tác động lâu dài tới đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Nhận thức được vấn đề đó, trong những năm qua, công tác y tế, dân số của tỉnh đã chú trọng triển khai nhiều chương trình, đề án nhằm can thiệp, giảm thiểu tình trạng MCBGTKS trên địa bàn bao gồm: Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và hệ lụy của MCBGTKS; tăng cường kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật; hỗ trợ nâng cao vai trò của phụ nữ, trẻ em gái và đầu tư nguồn lực tài chính cho các giải pháp này. Theo đó, toàn tỉnh đã đẩy mạnh triển khai các hoạt động truyền thông tại cộng đồng như: duy trì sinh hoạt các câu lạc bộ phụ nữ, tổ chức tư vấn, nói chuyện chuyên đề với nội dung về chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kiến thức pháp luật liên quan đến hôn nhân, bình đẳng giới, MCBGTKS; đưa nội dung truyền thông giáo dục sức khoẻ và giới tính cho học sinh trong các nhà trường; tổ chức tập huấn những quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi cho cán bộ y tế. Tăng cường phối hợp liên ngành, kiểm tra, giám sát các cơ sở y tế có cung cấp dịch vụ liên quan đến xác định giới tính thai nhi và phá thai vì lý do giới tính; tổ chức cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đã có một con ký cam kết không lựa chọn giới tính thai nhi…

Bước sang giai đoạn 2025- 2030, thực hiện một trong các mục tiêu của Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 là duy trì mức sinh thay thế, đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên nhằm đảm bảo sự cân đối, ổn định và phát triển bền vững, tỉnh Ninh Bình đặt ra mục tiêu đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức 109 trẻ trai/100 trẻ gái. Để đạt được mục tiêu đó, trong thời gian tới, ngành Y tế tỉnh sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể liên quan trong triển khai các hoạt động truyền thông nhằm kiểm soát tình trạng MCBGTKS; nâng cao hiệu lực thực thi những quy định của pháp luật về kiểm soát MCBGTKS đã được quy định trong các luật, pháp lệnh, quy định về cấm lựa chọn giới tính khi sinh.

Có thể nói, giải quyết tốt tình trạng MCBGTKS không chỉ là thực hiện mục tiêu Chiến lược Dân số trong một giai đoạn mà còn có ý nghĩa lâu dài, giúp duy trì sự ổn định xã hội. Một cơ cấu dân số cân bằng sẽ đảm bảo nguồn nhân lực, góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương trong tương lai. 

                                                                                     Lan Hương

Chi cục Dân số và Trẻ em