Bại liệt (Poliomyelitis) từng là nỗi ám ảnh toàn cầu trong thế kỷ XX, khiến hàng triệu trẻ em phải sống chung với tàn tật. Nhờ vaccine, căn bệnh này đã được kiểm soát mạnh mẽ, nhưng nguy cơ quay trở lại vẫn hiện hữu nếu con người chủ quan.
Nguyên nhân gây bệnh bại liệt
- Bại liệt là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Polio (Poliovirus) gây ra. Virus này thuộc họ Picornaviridae, có ba type huyết thanh chính, được phân loại và đặt tên dựa trên những ca bệnh đầu tiên được phân lập:
- Type 1 – Brunhilde: là type phổ biến và nguy hiểm nhất, gây ra phần lớn các vụ dịch bại liệt lớn trên thế giới. Đây cũng là type gây di chứng liệt nặng nhất.
- Type 2 – Lansing: trước kia từng lưu hành, nhưng đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố xóa sổ vào năm 2015 nhờ tiêm chủng toàn cầu.
- Type 3 – Leon: ít gặp hơn type 1, nhưng vẫn có thể gây ra những ca bệnh nặng, di chứng kéo dài.
- Đặc biệt: Ba type này không tạo miễn dịch chéo. Nghĩa là mắc bệnh hoặc có miễn dịch với type 1 vẫn có thể nhiễm type 2 hoặc 3. Vì vậy, vaccine phòng bại liệt luôn phải bao gồm kháng nguyên của cả ba type virus.
Đường lây truyền của bệnh bại liệt
- Phân – miệng: virus có trong phân của người bệnh hoặc người lành mang trùng, lây qua nước, thực phẩm, đồ vật nhiễm bẩn.
- Hô hấp: lây qua dịch tiết mũi họng, mặc dù ít gặp hơn.
- Khả năng tồn tại: virus Polio có thể sống nhiều tháng trong phân, khoảng 2 tuần trong nước và rất bền vững ngoài môi trường.
- Sau khi xâm nhập, virus nhân lên ở hạch bạch huyết và có thể tấn công hệ thần kinh trung ương, phá hủy tế bào thần kinh vận động, gây liệt mềm cấp tính.
Biểu hiện lâm sàng bệnh bại liệt
- Thể nhẹ (không điển hình): sốt, đau họng, buồn nôn, mệt mỏi giống cúm, thường tự khỏi.
- Thể viêm màng não vô khuẩn: đau đầu, cứng gáy, rối loạn thần kinh nhẹ.
- Thể liệt: nguy hiểm nhất, gây yếu cơ, mất vận động, thường ở chân và không đối xứng. Nếu tổn thương hành tủy, bệnh nhân có thể khó thở, tử vong nhanh chóng.
Phòng bệnh bại liệt
Cục Phòng bệnh, Bộ Y tế khuyến cáo mọi người nên thực hiện tốt những biện pháp dưới đây nhằm chủ động phòng, chống căn bệnh bại liệt:
- Tiêm vaccine bại liệt cho trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, ít nhất 3 lần theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
- Cần nâng cao ý thức cộng đồng về việc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, bao gồm cả vệ sinh cá nhân và vệ sinh nguồn nước, thực phẩm.
- Cần tạo dựng thói quen vệ sinh các vật dụng, bề mặt, đồ chơi, bàn ghế, dụng cụ học tập, sàn nhà bằng xà phòng diệt khuẩn hoặc chất tẩy rửa.
- Người chăm sóc trẻ cần thường xuyên làm sạch tay bằng xà phòng, đặc biệt là trong những lúc trước và sau khi cho trẻ ăn, sau khi đi vệ sinh.
- Sử dụng những nguồn nước sạch, không phóng uế bừa bãi. Phân của trẻ em cũng cần phải được thu dọn, vứt đổ vào nhà vệ sinh và cọ rửa sạch sẽ.
- Nếu trẻ em trong nhà hoặc tại trường học xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn, sốt, cứng gáy, đau cơ bắp và các chi, liệt mềm cấp... cần đưa trẻ đi khám và điều trị kịp thời tại bệnh viện hoặc các cơ sở y tế gần nhất.
Điều trị bệnh bại liệt:
Hiện tại, bệnh bại liệt không có phương pháp điều trị đặc hiệu để loại bỏ virus khỏi cơ thể. Việc điều trị chủ yếu tập trung vào giảm nhẹ triệu chứng, nâng đỡ thể trạng, hỗ trợ hồi phục chức năng và ngăn ngừa các biến chứng. Một số phương pháp điều trị bao gồm:
- Bất động hoàn toàn: Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi, tránh vận động để giảm nguy cơ tổn thương cơ và thần kinh thêm trong giai đoạn cấp tính.
- Tăng cường và nâng cao thể trạng: Cung cấp đủ dinh dưỡng bằng cách bổ sung sinh tố và truyền dịch để duy trì sức khỏe và thể trạng cho người bệnh.
- Hỗ trợ hô hấp: Trong trường hợp bệnh nhân có dấu hiệu liệt tủy dẫn đến suy hô hấp, cần hỗ trợ hô hấp.
- Điều trị kháng sinh: Nếu có bội nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân sẽ được chỉ định dùng kháng sinh theo hướng dẫn của bác sĩ.
- Phục hồi chức năng: Sau giai đoạn cấp tính, bệnh nhân cần thực hiện các liệu pháp phục hồi chức năng để khắc phục di chứng liệt cơ và giúp phục hồi khả năng vận động.
Gia Huy
















