Những kết quả của ngành y tế năm 2011 có thể tóm tắt ở một số điểm nổi bật như sau:
Xem hình
Một ca phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh

Năm 2011 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XX, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, kế hoạch 5 năm (2011-2015), trong quá trình thực hiện có nhiều thuận lợi cơ bản nhưng cũng  không ít khó khăn thách thức, song với sự đoàn kết, thống nhất của Lãnh đạo Sở Y tế, các phòng chức năng; sự nỗ lực cố gắng của các đơn vị trong toàn ngành, chúng ta có thể khẳng định công tác y tế năm 2011 đã thu được kết quả khá toàn diện trên các mặt hoạt động, chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã được nâng lên đáng kể, đóng góp vào thắng lợi chung của tỉnh trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Những kết quả của ngành y tế năm 2011 có thể tóm tắt ở một số điểm nổi bật như sau:

1. Công tác phòng, chống dịch bệnh được triển khai đồng bộ; việc theo dõi, giám sát dịch bệnh tại cộng đồng được duy trì thường xuyên, liên tục, kịp thời phát hiện, bao vây, khống chế không để dịch lớn xảy ra. Kết quả các dịch bệnh nguy hiểm như cúm A H1N1, H5N1, sốt xuất huyết, tiêu chẩy cấp nguy hiểm không xảy ra trên địa bàn tỉnh. Một số bệnh truyễn nhiễm xảy ra rải rác ở các địa phương trong tỉnh như bệnh Cúm, Sởi, Quai bị, Thuỷ đậu, nhiễm liên cầu lợn, nhưng số lượng giảm so với năm 2010. Bệnh Tay chân miệng mắc rải rác ở các địa phương được kiểm soát, quản lý và điều trị kịp thời, không có người bệnh tử vong.

2. Công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường chỉ đạo, triển khai thực hiện có hệ thống và đạt kết quả khá tốt. Vấn đề vệ sinh môi trường đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, duy trì thường xuyên. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm; các nhà hàng, khách sạn, quán ăn. Kết quả cho thấy nhận thức của người dân về vệ sinh an toàn thực phẩm được nâng lên, nhiều cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, số vụ ngộ độc thực phẩm, số người bị ngộ đốc thực phẩm giảm hẳn so với năm 2010, không có vụ ngô độc lớn xảy ra.

3. Công tác tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ triển khai cả bề rộng và chiều sâu, nhận thức của người dân về bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ được nâng lên. Hình thức và nội dung truyên truyền được đổi mới, nhiều chương trình giáo dục sức khoẻ trên các phương tiện thông tin đại chúng đã thu hút được sự quan tâm của người dân, bám sát nhiệm vụ chính trị của ngành. Trung tâm TTGDSK phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong ngành, các cơ quan thông tin đại chúng kịp thời tuyên truyền, đưa tin về các hoạt động, gương người tốt, việc tốt.

4. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai đồng bộ và có hiệu quả; hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch chương trình đều đạt và vượt mục tiêu đề ra. Năm 2011, triển khai 2 chương trình mới (Chương trình phòng chống Tăng huyết áp, An toàn truyền máu). Việc quản lý, phát hiện các bệnh xã hội được triển khai tốt, số lượng người mới mắc các bệnh xã hội kể cả HIV/AIDS giảm so với năm 2010.

5. Công tác khám, chữa bệnh được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư nguồn lực; cơ sở vật chất các bệnh viện được tăng cường, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Tâm thần, Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện Mắt, Bệnh viện Lao & Bệnh phổi, các Trung tâm y tế tuyến huyện được đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp khang trang; thiết bị y tế ở hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh tuyến tỉnh, tuyến huyện được đầu tư, trang bị cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác khám chữa bệnh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh và trung tâm y tế Nho Quan được trang bị hệ thống phẫu thuật nội soi hiện đại. Hệ thống cấp cứu sơ sinh Bệnh viện Sản Nhi đươc trang bị những thiết bị hiện đại vào loại nhất trong cả nước. Các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện đã xây dựng kế hoạch, định hướng phát triển đơn vị, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh phục vụ nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao cả về trình độ chuyên môn và tinh thần thái độ phục vụ người bệnh. Số lượng người bệnh đến khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ tại các cơ sở khám chữa bệnh công lập tăng so với năm 2010, hầu hết các chỉ tiêu khám, chữa bệnh đều đạt từ 110 đến 120% kế hoạch, số người bệnh phải chuyển tuyến trên giảm đáng kể.

6. Nhiều kỹ thuật mới được áp dụng vào khám và điều trị cho người bệnh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện Mắt tiếp tục triển khai áp dụng nhiều kỹ thuật mới như: phẫu thuật cắt tử cung qua nội soi, đẻ giảm đau, phẫu thuật thay chỏm xương đùi, phẫu thuật nội soi khớp gối, phẫu thuật nội soi tai mũi họng, phẫu thuật sọ não lấy máu tụ ngoài màng cứng, tán sỏi ngoài cơ thể, phẫu thuật Phaco, cấp cứu và hồi sức sơ sinh, đã thực hiện nuôi thành công nhiều trẻ sơ sinh cân nặng  dưới 1.000 gam...

7. Công tác Dân số - kế hoạch hoá gia đình được quan tâm, chỉ đạo và triển khai có hiệu quả các dự án nâng cao chất lượng dân số như: Sàng lọc trước sinh và sơ sinh, chăm sóc sức khoẻ sinh sản vị thành niên, thanh niên, can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh... Nhận thức của nhân dân về thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình được nâng lên, tỷ số giới tính khi sinh, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm so với năm 2010.

8. Cung ứng thuốc, thị trường thuốc được ổn định: Thực hiện công tác đấu thầu tập trung cung ứng thuốc cho các cơ sở khám, chữa bệnh công lập sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm Y tế. Qua đấu thầu cho thấy giá thuốc ổn định, các nguồn cung cấp kịp thời, đảm bảo rõ nguồn gốc, tạo điều kiện tốt cho công tác quản lý, giám sát và sử dụng thuốc thống nhất trong toàn tỉnh. Việc thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc được duy trì thường xuyên, chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm cơ sở cung ứng thuốc không đảm bảo chất lượng.

9. Công tác nghiên cứu khoa học tăng cả về số lượng và chất lượng đề tài nghiên cứu: Năm 2011 toàn ngành có 145 đề tài, 4 sáng kiến cải tiến kỹ thuật đăng ký, tăng 12 đề tài so với năm 2010; trong đó có 3 đề tài cấp tỉnh, 20 đề tài cấp ngành, 122 đề tài cấp cơ sở, nhiều đề tài nghiên cứu với nội dung mới, phù hợp, sáng tạo và có tính thực tiễn cao, được Hội đồng khoa học của ngành, của tỉnh đáng giá cao; việc xét duyệt và nghiệm thu được thực hiện chặt chẽ, đúng theo quy định.

10. Tổ chức thành công Hội thi điều dưỡng, hộ sinh giỏi, thanh lịch và tuyên truyền thực hiện quy tắc ứng xử trong ngành y tế. Phối hợp với Công đoàn Y tế Việt Nam tổ chức thành công Hội thi ‘Tuyên truyền về thực hiện quy tắc ứng xử ngành y tế, khu vực 2’ tại Ninh Bình, Hội thi đã để lại dấu ấn đậm nét về ngành y tế Ninh Bình đối với Bộ Y tế và các đơn vị bạn. Thông qua Hội thi đã tạo ra khí thế thi đua trong toàn ngành về thực hiện quy tắc ứng xử, nâng cao đạo đức nghề nghiệp và tinh thần thái độ phục vụ nhân dân.

11. Công tác quản lý, chỉ đạo và việc ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý điều hành của ngành có nhiều tiến bộ; quản lý nhà nước trên các lĩnh vực y tế được tăng cường, tạo ra sự thống nhất trong việc triển khai các chương trình từ tỉnh đến cơ sở, phát huy sức mạnh của toàn ngành, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Triển khai thực hiện khá đồng bộ việc ứng dụng tin học hoá trong quản lý điều hành ngành y tế (ứng dụng phần mềm Eoffice, nối mạng Megawan giữa Sở Y tế với các đơn vị, triển khai phần mềm quản lý nhân lực, quản lý hành nghế y, dược tư nhân, quản lý bệnh viện...)./.

 Ths. Tống Quang Thìn - TUV, Giám đốc Sở Y tế